传统习俗中,桂树与月亮有不解之缘。宋周密《乾淳岁时记》载:“中秋夕,禁中赏月延桂。”可知把观月与赏桂相联的节令风俗由来已久。南方尚有中秋之夜踏月捡桂的活动,白居易《忆江南》“山寺月中寻桂子”,正是此俗的写照。而在有子弟攻书读经的人家,室内悬有描绘小儿嬉于月下桂边的《蟾宫折桂》图,便是最受欢迎的时令瑞图,因为古代的乡试例在农历八月举行。
Trong phong tục truyền thống, cây quế và mặt trăng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong “Càn thuần tuế thời ký” của Tống Châu Mật có chép: “Trung thu tịch, cấm trung thưởng nguyệt diên quế” (Đêm Trung thu, trong cung cấm ngắm trăng mời quế). Có thể thấy phong tục mùa vụ gắn liền việc ngắm trăng và thưởng thức hoa quế đã có nguồn gốc từ lâu. Miền Nam có hoạt động đạp bóng trăng nhặt hoa quế vào đêm Trung thu. Bạch Cư Dị trong “Ức Giang Nam” viết: “Sơn tự nguyệt trung tầm quế tử” (Tìm hoa quế trong bóng trăng nơi chùa trên núi) chính là miêu tả phong tục này. Còn những nhà có con đi học, trong phòng thường treo bức tranh “Thiềm cung chiết quế” (Bẻ quế cung trăng) vẽ đứa trẻ đang chơi đùa bên cây quế dưới trăng, là bức tranh cát tường theo mùa được yêu thích nhất. Bởi vì kỳ thi hương thời xưa được tổ chức vào tháng 8 âm lịch.
其实,无论观月赏桂、月下寻桂,还是张挂折桂瑞图,或以桂花入酒点茶以助玩月之兴,其根据皆从“月中有桂”的传说而来。《本草拾遗》云:“江东诸处,尝于衢路拾得桂子,大如狸豆,破之辛香,故老相传是月中下也。” 《禅林备览》云:“有梵僧从天竺鹫山飞来,云八月十五日夜桂子落。”这说明所谓“寻桂”是特指寻捡从月亮中落下的桂子。唐宋之问“桂子月中落,天香云外飘”的名句,与前引白居易的小词相同,均借用月中有桂应时落子的掌故。流传更广的还有“吴刚伐桂”的故事,据唐段成式《酉阳杂俎·尺咫》称:西河人吴刚学仙有过失,被罚往月宫伐桂。这棵月桂高五百丈,吴刚不停地砍,桂树的创口却不停地生长还原,所以吴刚伐桂永无尽头。
Thực ra, bất luận là ngắm trăng thưởng quế, dưới trăng tìm quế, hay treo tranh bẻ quế, hoặc là đưa hoa quế vào trà rượu để tạo thêm hứng thú chơi trăng, đều bắt nguồn từ truyền thuyết “Trong trăng có quế”. “Bản thảo thập di” nói: “Giang Đông chư xứ, thưởng ư cù lộ thập đắc quế tử, đại như li đậu, phá chi tân hương, cố lão tương truyền thị nguyệt trung hạ dã.” (các vùng Giang Đông đã từng nhặt được hoa quế trên đường, lớn như hạt đậu, vò nát có vị thơm nồng, cho nên từ xưa đã tương truyền rằng đó là hoa quế từ mặt trăng rơi xuống). “Thiền Lâm Bị Lãm” nói: “Hữu Phạn tăng tòng Thiên Trúc Tựu sơn phi lai, vân bát nguyệt thập ngũ nhật dạ quế tử lạc” (Có vị Phạn tăng từ Tựu Sơn ở Thiên Trúc đến, nói là đêm rằm thắng 8 hoa quế rơi). Điều này chứng tỏ “tìm quế” là chỉ việc tìm nhặt hoa quế từ mặt trăng rơi xuống. Câu thơ nổi tiếng của Tống Chi Vấn đời Đường: “Quế tử nguyệt trung lạc, thiên hương vân ngoại phiêu” (Hoa quế từ trong trăng rơi xuống, hương trời lan tỏa khắp tầng mây), giống với câu từ của Bạch Cư Dị, đều mượn sự tích trong trăng có hoa quế rụng xuống vào đêm rằm. Được lưu truyền rộng rãi hơn còn có chuyện “Ngô Cương đốn quế”, theo “Dậu dương tạp trở – Xích chỉ” của Đoàn Thành Thức đời Đường nói: Ngô Cương người Tây Hà học phép tiên phạm tội nên bị phạt phải đốn quế ở cung trăng. Cây quế này cao 500 trượng, Ngô Cương không ngừng chặt, nhưng vết chặt trên thân cây quế lại liên tục liền lại, cho nên Ngô Cương phải ở lại đó đốn quế vĩnh viễn.
吴刚的遭遇使月中有桂的传闻得到进一步“坐实”,以至“桂宫”、“桂花”、“桂魄”等成了月亮的代词,如南朝梁沈约《八咏诗·登台望秋月》云“桂宫袅袅落桂枝”,北周庚信《舟中望月》云“天汉看珠蚌,星桥视桂花”,皆以桂指月,足见南北朝时期,无论南方北方,月中生桂之说已尽人皆知。至于这种俗信是怎样起源的,与此相伴的种种传说及风俗的文化涵义是什么,却很少有人去寻绎一番,待这些问题进入现代学者的视野时,便成了各执一词的悬案。
Tình cảnh của Ngô Cương càng khẳng định thêm truyền thuyết trong trăng có quế, đến nỗi các từ “cung quế”, “hoa quế”, “hồn quế”… đã trở thành những đại từ chỉ mặt trăng, như bài “Bát vịnh thi – Đăng đài vọng thu nguyệt” (thơ bát vịnh – Lên đài ngắm trăng thu) của Lương Thẩm Ước thời Nam Triều nói: “Quế cung niễu niễu lạc quế chi” (Cành quế uyển chuyển trong trăng), trong bài “Chu trung vọng nguyệt” (Trong thuyền ngắm trăng) của Dữu Tín thời Bắc chu viết: “Thiên hán khán châu bạng, tinh kiều thị quế hoa” (Ngân hà xem trai ngọc, cầu Hỷ tước ngắm bóng trăng), đều lấy quế chỉ trăng, có thể thấy thời kỳ Nam Bắc Triều, bất kể là phương Bắc hay phương Nam, cách nói trong trăng có quế hầu như mọi người đều biết. Còn như niềm tin này bắt nguồn như thế nào, những truyền thuyết có liên quan và hàm nghĩa văn hóa của phong tục là gì, rất ít người đi tìm nguồn gốc của nó, đến khi vấn đề này lọt vào tầm nhìn của các học giả hiện đại, đã trở thành một nghi vấn mà mỗi người đều có cách giải thích riêng.
有人认为月中有桂的观念在远古时代已经形成,古人仰望皎洁的明月,发现月轮上有暗斑(月球表面环形山脉造成的阴影),便以为月中有实物存在,并根据其形状推测为某种动物(如兔、蟾蜍)或植物(如桂树、阎浮树),这种玄想是古人直观思维的产物。准此,所谓桂子自月中飘落以及吴刚伐桂等传说,均是以上述直观思维为基础的幻想。
Có người cho rằng quan niệm trong trăng có quế đã hình thành từ thời xa xưa, người xưa ngước nhìn vầng trăng sáng trong vằng vặc, phát hiện ra trong trăng có những vết đen (bóng do những rặng núi hình vòng cung trên bề mặt mặt trăng tạo thành), cho rằng trong trăng có sự hiện diện của vật thật, đồng thời căn cứ vào hình dạng của nó mà suy đoán nó là một loài vật nào đó (như thỏ, cóc) hoặc là loại cây nào đó (như cây quế, cây diêm phù), sự tưởng tượng này là sản phẩm của tư duy trực quan của người xưa. Theo đó, truyền thuyết quế rụng từ mặt trăng và truyền thuyết Ngô Cương đốn quế… đều là những tưởng tượng lấy tư duy trực quan trên làm cơ sở.
“阴影”说在学林中曾见通行。有人指出:月中阴影,斑斑驳驳,比附一般树影,勉强可以;但无法解释阴影何以就是桂树。论者在驳难的同时提出另一种见解,月中有桂的神话当源于“月桂”本身的特性:桂的品种甚多,月桂是其中之一,其特点是逐月开花,故名“月桂”;基于月桂的开花期与月亮盈缺的周期相同的特点,遂把桂、月相提并论。于是月中有桂的神话因素便包含在这个名词之中:既可单指这种植物,又可指月中之桂,而“月中有桂”正是由语言的一词多义演化的结果。
Cách nói “bóng đen” đã từng thấy lưu truyền trong giới học giả. Có người chỉ ra rằng: bóng đen trong trăng, loang loang lổ lổ, ví như bóng cây thông thường, có thể miễn cưỡng chấp nhận được; nhưng không cách nào giải thích được bóng đen đó vì sao lại là cây quế. Người nói phản bác đồng thời đưa ra một kiến giải khác, thần thoại trong trăng có quế bắt nguồn từ đặc tính của bản thân “nguyệt quế”; quế có rất nhiều loại, nguyệt quế là một trong số đó, đặc điểm của nó là nở hoa vào mùa trăng tròn, cho nên có tên “nguyệt quế”; trên cơ sở đặc điểm thời kỳ nở hoa của nguyệt quế tương đồng với chu kỳ tròn khuyết của mặt trăng, từ đó gộp trăng với quế lại mà luận bàn. Thế là nhân tố thần thoại trong trăng có quế bao hàm trong danh từ này: vừa có thể chỉ riêng loại thực vật này, vừa có thể chỉ cây quế trong trăng, còn “trong trăng có quế” chính là kết quả của sự diễn biến đa nghĩa của từ trong ngôn ngữ.
还有人认为月中有桂的观念约形成于战国初年,是追求长生不死的方术家言兴起后的产物,桂树的原型即《山海经·海内西经》中昆仑山上的“不死树”,因昆仑山乃传说中的西王母所居之处,所以后来被“移植”到月宫上,其媒介就是秦汉之际流行的西王母为“月精”之类的传说。从《楚辞·九歌·东皇太一》“蕙肴蒸兮兰藉,奠桂酒兮椒浆”的描述可知,至少从战国时起,桂花入酒便是奉神的祭祀品,后来方士又演绎出种种食桂登仙的传闻,如西汉刘向《列仙传》里的象林桂父,是一位经常食桂的仙人。与此同时,“桂,江南之木,百药之长”(《说文解字》)的药用特性,则早为世人所熟知,其养精和颜、轻身益寿的功效亦和学仙者追求的长生不死的目标有共同点,故方士选桂子桂花为服食登仙的灵药乃成顺理成章之事。准此,所谓月中有桂的俗信,实际上起源于古人对食桂长生的向往,此后的月桂降子传闻和踏月寻桂风俗的内在涵义,也都起源于此。
Còn có người cho rằng quan niệm trong trăng có quế được hình thành vào những năm đầu thời Chiến Quốc, là sản phẩm ngôn ngữ của các nhà phương thuật theo đuổi mục đích trường sinh bất tử. Nguyên mẫu của cây quế là “cây bất tử” trên núi Côn Lôn trong tác phẩm “Sơn hải kinh – Hải nội Tây kinh ”, bởi vì theo truyền thuyết, núi Côn Lôn là nơi ở của Tây Vương Mẫu, cho nên về sau được “di thực” lên cung trăng, chuyển giao của nó chính là như truyền truyền thuyết nói rằng Tây Vương Mẫu là “Nguyệt Tinh” được lưu truyền giữa thời Tần Hán. Từ miêu tả của “Sở từ – Cửu ca – Đông Hoàng Thái Nhất”: “Huệ hào chưng hề lan tá, điện quế tửu hề tiêu tương” (các món thịt thơm ngon được lót bằng lan, rượu quế hiến tế được đặt trong nước hoa hoa tiêu) có thể biết, ít nhất từ thời Chiến Quốc, hoa quế làm rượu là vật để cúng tế thần linh, sau này các phương sĩ lại diễn giải thành những lời truyền tụng như ăn quế thành tiên, ví dụ như Tượng lâm Quế Phụ trong tác phẩm “Liệt tiên truyện” của Lưu Hướng thời Tây Hán là một vị tiên thường xuyên ăn quế. Cùng lúc đó, dược tính của quế: “Quế, Giang Nam chi mộc, bách dược chi trưởng” (Quế, cây ở Giang Nam, đứng đầu trăm loại thuốc) (
至于吴刚伐桂故事的由来,持“长生”说者认为他就是汉石棺画像中身分不明的月中“仙人”之一,其原型便是《山海经·海内经》中的吴权。民间相传,西河人吴权外出,太阳神炎帝的孙子伯陵趁机与其妻缘妇姘居,生鼓、延、殳三子。吴权回家后大怒,将伯陵吊死。炎帝即施报复,罚吴权在月宫砍伐那棵随研随合、永远不死的桂树。缘妇得知丈夫的境遇,于心不忍,让长子鼓、幼子殳飞至月亮,化成蟾蜍和玉兔,陪伴吴权共度永无尽头的清冷岁月。
Còn như nguồn gốc của truyện Ngô Cương đốn quế, những người ủng hộ thuyết “trường sinh” cho rằng Ngô Cương chính là một trong những vị tiên trong cung trăng chưa rõ lai lịch trong những bức tranh ở quan tài đá đời Hán, nguyên mẫu của nó là Ngô Quyền trong tác phẩm “Sơn hải kinh – Sơn nội kinh”. Dân gian tương truyền rằng, Ngô Quyền người Tây Hà đi ra ngoài, cháu của thần mặt trời Viêm Đế là Bá Lăng bèn nhân cơ hội ăn ở lang chạ với vợ của y sinh ra ba người con là Cổ, Diên, Thù. Ngô Quyền sau khi trở về nhà biết chuyện đã vô cùng thịnh nộ, bèn treo chết Bá Lăng. Viêm Đế muốn báo thù cho cháu nên phạt Ngô Quyền ở cung trăng đốn cây quế bất tử và biết tự liền lại khi bị chặt. Vợ ông biết tình cảnh của chồng, không nhẫn tâm, bèn bảo con trai trưởng Cổ, và con trai út là Thù bay lên cung trăng, hóa thành con cóc và thỏ ngọc cùng làm bạn với Ngô Quyền suốt những ngày tháng lạnh lẽo vô tận.
此外,还有人认为月中有桂的观念根植于世人对富贵的追求,媒介是“桂”与“贵”的谐音,民间瑞图中如“连生贵子”、“福增贵子”、“贵寿无极”等,均以桂花、桂子入图,俱是例证。河南民间传说:吴刚、吴强兄弟住在颍河边。分家时,吴刚侵吞家业,仅留给吴强一把斧子。其后弟弟以砍柴为业。某日,飞天牛载他去月宫摘回一些金桂子,日子富裕起来。吴刚得知后,也乘飞天牛去月宫。他贪心大发,想把整棵金桂砍下,孰料金桂随砍随合。天快亮时,飞天牛回到人间,吴刚却留在月宫砍伐不止。上述传说所透射的历史信息,也是以月中桂为富贵的象征,只是让吴刚扮演一个警醒世人切勿过于贪心的悲剧角色。循此,旧时浙闽一带的踏月寻桂习俗所蕴含的民俗心态,就该是快快发财了。
Ngoài ra, còn có người cho rằng quan niệm trong trăng có quế bắt nguồn từ sự theo đuổi giàu sang của người đời, lấy hài âm của từ“桂”(Quế) và “贵”(Quý), các bức tranh cát tường của dân gian thường có như: “Liên sinh quý tử”, “Phúc tăng quý tử”, “Quý thọ vô cực”…, đều dùng các hình ảnh hoa quế, cây quế để đưa vào tranh, là ví dụ điển hình. Truyền thuyết dân gian Hà Nam nói: “Hai anh em Ngô Cương, Ngô Cường sống bên sông Dĩnh. Khi chia nhà, người anh Ngô Cương đã chiếm hết sản nghiệp, chỉ để lại cho người em Ngô Cường một cái rìu. Sau này người em sống bằng nghề đốn củi. Một ngày nọ, con trâu trời biết bay bèn chở người em lên cung trăng hái về một ít quế bằng vàng, từ đó người em có cuộc sống sung túc hẳn. Ngô Cương sau khi biết chuyện, cũng cưỡi trâu bay lên cung trăng. Hắn tham lam muốn đốn cả cây quế vàng, nhưng không ngờ cây quế vàng bị chặt bèn liền lại nhanh chóng. Khi trời sắp sáng, trâu trời bay về nhân gian, còn Ngô Cương lại ở lại trên cung trăng không ngừng đốn quế. Những thông tin lịch sử được hé mở từ những truyền thuyết kể trên cũng là lấy quế trong trăng làm biểu tượng của sự giàu sang, chỉ là để cho Ngô Cương đóng vai bi kịch để cảnh tỉnh con người đừng quá tham lam. Từ đó, cho thấy tâm thái dân gian ẩn chứa trong tập tục đạp bóng trăng tìm quế của khu vực Chiết Giang, Phúc Kiến là mong muốn phát tài nhanh chóng.
有关月中缘何生桂树以及由此伴生的种种传说与风俗的文化涵义究竟是什么,看来还难下定论。
Hàm nghĩa văn hóa liên quan đến việc trong trăng vì sao lại có quế cùng với những truyền thuyết và phong tục phát sinh từ đó rốt cuộc là gì, xem ra vẫn khó để kết luận.