在人们心目中,王母是位气派雍容、无比尊贵的天界第一夫人——玉皇大帝的太太。这在《西游记》等神魔小说和娘娘庙中的王母塑像中都有反映。元代著名道宫山西芮城永乐宫壁画中的王母,是个仪态万千的年可三十许的美妇人。其实,当初的王母可没有如此漂亮,倘若说王母娘娘当初的模样是蓬着头发,满嘴虎齿,还有条豹尾,长啸不止,许多人一定会大吃一惊,肯定难以接受。然而王母的尊容最初确实如此。在漫长的历史进程中,王母经历了一个由部族首领而为恶神,由恶神而为善神,最终成为女仙之首的演变过程。
Trong tâm thức của mọi người, Vương Mẫu Nương Nương là một vị đệ nhất phu nhân ở cõi trời có phong thái ung dung, cao quý không ai sánh kịp, cũng là phu nhân của Ngọc Hoàng đại đế. Trong những bức tượng vương mẫu ở miếu nương nương và các tiểu thuyết thần ma như“Tây Du ký”… đều có phản ánh. Vương Mẫu trong bức bích họa ở Vĩnh Lạc Cung Nhuế Thành, Sơn Tây – đạo cung nổi tiếng thời nhà Nguyên là một phu nhân mỹ lệ khoảng ba mươi tuổi có tư thái lịch sự. Thật ra, Vương Mẫu ban đầu không đẹp đến thế, nếu như nói hình dáng ban đầu của Vương Mẫu Nương Nương là đầu tóc rối tung, miệng đầy răng hổ còn có cái đuôi báo, tiếng gầm dài không dứt, rất nhiều người nhất định sẽ vô cùng kinh ngạc, chắc chắn khó mà chấp nhận. Nhưng tôn dung của Vương Mẫu Nương Nương lúc đầu quả thực là như thế. Trong tiến trình lịch sử dài đăng đẵng, Vương Mẫu đã trải qua một quá trình diễn biến từ thủ lĩnh của bộ tộc trở thành ác thần, từ ác thần trở thành thiện thần, cuối cùng trở thành người đứng đầu trong các tiên nữ.
★西王母是部族首领
Tây Vương Mẫu là thủ lĩnh bộ tộc
王母娘娘是民间的俗称,她的官名是西王母。西王母本是西方一个原始部族的名称。《尔雅・释名》说:“觚竹、北户、西王母、日下,谓之四荒。”
Vương Mẫu Nương Nương là tên thường gọi trong dân gian, tên quan của bà là Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu vốn là tên gọi của một bộ tộc nguyên thủy ở phương Tây. Bài “Thích Danh” trong tập “Nhĩ Nhã” có nói: “ Cô Trúc, Bắc Hộ, Tây Vương Mẫu, Nhật Hạ, gọi là tứ hoang (vùng đất xa xôi hoang vu ở bốn phương).”
西晋郭璞对此注曰:“觚竹在北,北户在南,西王母在西,日下在东,皆四方昏荒之国,次四极者。”这个西王母部族具体在什么地理位置呢?
Quách Phác thời Tây Tấn giải thích điều này như sau: “Cô Trúc ở phương Bắc, Bắc Hộ ở phương Nam, Tây vương Mẫu ở phương Tây, Nhật Hạ ở phương Đông, đều là các nước hoang vu mông muội ở bốn phương, ở bốn chỗ tận cùng.” Bộ tộc Tây Vương Mẫu này cụ thể ở vị trí địa lý nào?
一种说法是在玉山。《山海经・西次四经》:“玉山,是西王母所居也。”郭璞解释说:“此山多玉石,因以名云。《穆天子传》谓之群玉之山。”一种说法是在昆仑山。《山海经・大荒西经》:“西海之南,流沙之滨,赤水之后,黑水之前,有大山,名曰昆仑之丘。……有人……穴处,名曰西王母。此山万物尽有。”《汉书・地理志下》亦称金城郡临羌县“西北至塞外,有西王母石室”。《续汉书・郡国志五》说金城郡临羌县有昆仑山,则亦认为西王母在昆仑一带。还有一种说法,是在崦嵫(弇兹)山,又作弇山。《穆天子传》说周穆王访西王母,登弇山,名之为西王母之山。诸说中以昆仑山最为著名,影响最大。古人把昆仑山视为神山、仙山。《史记・大宛传》中即称“昆仑其高二千五百余里,日月相避隐为光明也。其上有醴泉、瑶池。”唐人所撰《括地志・肃州酒泉下》说:“酒泉南山即昆仑之体,周穆王见西王母,乐而忘归,即谓此山,有石室、王母堂。”
Có một thuyết cho rằng ở Ngọc Sơn. “Tây Thứ Tứ Kinh trong Sơn Hải Kinh”: “Ngọc Sơn, là chỗ ở của Tây Vương Mẫu.” Quách Phác giải thích: “Núi này có nhiều ngọc thạch, nên lấy làm tên. “Mục Thiên Tử Truyện” gọi là núi Quần Ngọc.” Một thuyết khác cho rằng ở núi Côn Luân. “Đại Hoang Tây Kinh” trong “Sơn Hải Kinh” có viết: “Phía nam Tây Hải, bên bờ Lưu Sa, đằng sau Xích Thủy, đằng trước Hắc Thủy, có ngọn núi lớn, tên là núi Côn Luân… có người… ở trong hang, tên là Tây Vương Mẫu.Núi này vạn vật đều có.” Trong “Địa Lí Chí Hạ, Hán Thư” cũng gọi huyện Lâm Khương, quận Kim Thành “từ Tây Bắc dài đến ngoài biên ải, có nhà đá của Tây Vương Mẫu”. Trong “Quận Quốc Chí Ngũ, Tục Hán Thư” nói, huyện Lâm Khương, quận Kim Thành có núi Côn Luân, thì cũng cho rằng Tây Vương Mẫu ở Côn Luân. Còn có một thuyết nói là ở núi Yêm Tư (Yểm Tư) còn gọi Yểm Sơn”. “Mục Thiên Tử Truyện” nói Chu Mục Vương đi viếng Tây Vương Mẫu, lên núi Yểm Sơn, đó là núi của Tây Vương Mẫu. Trong các thuyết thì núi Côn Luân là nổi tiếng nhất, ảnh hưởng lớn nhất. Người xưa xem núi Côn Luân là núi thần, núi tiên. “Đại Uyển Truyện” trong “Sử Kí” thì nói “núi Côn Luân cao hơn 2.500 dặm, mặt trời, mặt trăng thay nhau hiện ra chiếu sáng. Trên núi có suối rượu ngọt, ao Dao Trì. “Tiêu Châu Tửu Tuyền Hạ – Quát Địa Chí.” do người đời Đường soạn nói: “Tửu tuyền Nam Sơn là cơ thể của Côn Luân, Chu Mục Vương gặp Tây Vương Mẫu, vui mà quên quay về, tức là nói núi này có thạch thất, có Vương Mẫu đường.”
据以上诸种说法,大体可以说,古老的西王母部族在边远的西方,虽不一定生活在传说中的昆仑山上,但大约在今甘肃、青海一带。西王母部族的首领,也被叫做“西王母”。西王母与中原交往,可能在西周。今本《竹书纪年》说:“十七年,王(周穆王)西征昆仑丘,见西王母。其年,西王母来朝,宾于昭官。”《史记・赵世家》也称穆王“西巡狩,见西王母,乐之忘归。”这些记载似非完全虚构,大概有一定的历史根据。
Theo các thuyết trên, đại thể có thể nói, bộ tộc Tây Vương Mẫu cổ xưa ở phương Tây xa xôi, tuy không chắc là sống trên núi Côn Luân trong truyền thuyết, nhưng có lẽ ở vùng Cam Túc, Thanh Hải ngày nay. Thủ lĩnh của bộ tộc Tây Vương Mẫu cũng được gọi là “Tây Vương Mẫu”. Bộ tộc Tây Vương Mẫu và Trung Nguyên kết giao với nhau có thể vào thời Tây Chu. Ngày nay, trong quyển “Trúc Thư Kỷ Niên” có nói: “Mười bảy năm, vua (Chu Mục Vương) tây chinh trên núi Côn Luân, gặp Tây Vương Mẫu. Năm ấy, Tây Vương Mẫu về triều, Mục Vương đãi khách ở Chiêu Cung.” Và“Sử ký Triệu Thế Gia” cũng nói đến Mục Vương “tuần du phương Tây, gặp Tây Vương Mẫu, vui quên về.” Những dòng ghi chép này không hẳn hoàn toàn là hư cấu, đại khái có căn cứ lịch sử nhất định.
★西王母被神化为怪神
Tây Vương Mẫu được thần hóa thành quái thần
西王母本是中国西部一部族首领,正如明代学者胡应麟所说,西王母“盖亦外国之君”,清代大学问家纪昀也说,“所谓西王母者,不过西方一国君”(《四库全书总目提要》卷一四二)。
Tây Vương Mẫu vốn là thủ lĩnh của một bộ tộc ở phía Tây Trung Quốc, đúng như học giả thời Minh – Hồ Ứng Lân nói: Tây Vương Mẫu “đại khái cũng là vua ngoại quốc”, đại học giả thời nhà Thanh – Kỷ Vân cũng nói: “Người gọi là Tây Vương Mẫu, chẳng qua là một vị vua phương Tây” (quyển 142 “Bản tóm tắt tổng mục lục của Tứ Khố Toàn Thư”).
西王母的传说流传开来,人们又把其历史从周推向远古,出现了“尧西见王母”,“舜时,西王母献白环及玦”等说法。(汉・贾谊《新书・修政语上》,《世本》,《尚书大传》卷三)于是西王母的历史传说渐而变为神话,西王母也由人而成神。西王母最初成神,其形象是不大美妙的。成书于战国至汉初的《山海经》将其描述为:
Truyền thuyết về Tây Vương Mẫu được lưu truyền, mọi người lại đem lịch sử về bà từ thời Chu đẩy đến thời cổ đại xa xôi, đã xuất hiện những thuyết như “vua Nghiêu gặp Vương Mẫu ở phương Tây”, “thời vua Thuấn, Tây Vương Mẫu hiến vòng trắng và trang sức bằng ngọc”… ( quyển 3, “Thượng Thư Đại Truyện”, “Thế Bản”, “Tu Chính Ngữ Thượng – Tân Thư” của Giả Nghị nhà Hán) thế là truyền thuyết lịch sử về Tây Vương Mẫu dần dần đã biến thành thần thoại, Tây Vương Mẫu cũng từ người mà thành thần. Lúc đầu Tây Vương Mẫu thành thần thì dung mạo của bà không được mỹ miều cho lắm. “Sơn Hải Kinh” trở thành sách từ thời Chiến Quốc đến đầu thời Hán đã miêu tả bà:
西王母其状如人,豹尾,虎齿,而善啸,蓬头戴胜,是司天之厉及五残。(《西山经》)
Tây Vương Mẫu hình dáng giống như người, đuôi báo, răng hổ, nhưng tiếng hú hiền lành, tóc rối bù đầu đội khăn, là người cai quản bệnh dịch và sao Ngũ tàn (hung tinh). (“Tây Sơn Kinh”)
西王母梯几而戴胜杖,其南有三青鸟,为西王母取食。在昆仑虚北。(《海内北经》)。
Tây Vương Mẫu dựa bàn cầm quyền tượng hình chim đầu rìu, phía nam có ba con chim xanh lấy thức ăn cho Tây Vương Mẫu. Ở phía bắc bãi hoang Côn Luân. (“Hải Nội Bắc Kinh”).
(昆仑之丘)有人戴胜,虎齿,豹尾,穴处,名曰西王母。(《大荒西经》)
(Côn Luân Chi Khấu) có người đội khăn, răng hổ, đuôi báo, ở trong hang, tên gọi Tây Vương Mẫu. (“Đại Hoang Tây Kinh”)
这就是说西王母是个半人半兽的怪神:虽有人模样,但长了一嘴虎牙,蓬着头发,戴着首饰,还有一条豹尾巴,喜欢长啸。其神格是瘟神和杀神:执掌“司天之厉及五残”,郭璞解释为:“主知灾厉(瘟疫)五刑残杀之气也”。此时西王母并未住在天上,而是穴居野处于昆仑山中。它到底是男是女也很难说。
Tức là nói Tây Vương Mẫu là vị thần kỳ quái nửa người nửa thú: tuy có hình dáng là con người, nhưng có răng hổ dài, đầu bù tóc rối, đội trang sức trên đầu, còn có một cái đuôi báo, rất thích hú dài văng vẳng. Thần cách của bà là thần ôn dịch và sát thần: chấp chưởng “cai quản bệnh dịch và sao Ngũ tàn”, Quách Phác giải thích là: “Người có quyền biết được khí chất của 5 hình phạt tàn sát thuộc tai họa (ôn dịch)”. Lúc ấy, Tây Vương Mẫu hoàn toàn chưa ở trên trời mà ở trong hang, nơi hoang dã núi Côn Luân. Tây Vương Mẫu cuối cùng là nam hay nữ cũng rất khó nói.
西王母半人半兽的怪模样,源于中国古代的动物崇拜和图腾崇拜。古人崇拜虎豹等猛兽,西王母部族大概将虎、豹作为部族图腾神,即部落保护神。西王母部族的全体人民可能都以虎豹的漂亮毛皮和锐利爪牙,作为饰物或护身符,所以他们所崇拜的部族保护神成了“其状如人,豹尾虎齿而善啸,蓬发戴胜”的凶猛模样了。这位凶神恶煞的性别是看不出的,因远古时男人和女人都戴玉首饰。西王母变为明显的女性,是后来的事。
Hình dạng kỳ quái nửa người nửa thú của Tây Vương Mẫu bắt nguồn từ tục sùng bái vật tổ và sùng bái cổ vật thời cổ đại Trung Quốc. Người xưa rất sùng bái những con mãnh thú như hổ, báo, bộ tộc Tây Vương Mẫu có lẽ xem hổ, báo là vị thần mà bộ tộc sùng bái, tức là thần bảo hộ của bộ lạc. Toàn thể nhân dân của bộ tộc Tây Vương Mẫu có thể đều lấy bộ da đẹp và răng nanh, móng vuốt sắc nhọn của hổ báo làm đồ trang sức hoặc bùa hộ thân,cho nên vị thần bảo hộ bộ tộc mà họ sùng bái đã trở thành kiểu mẫu hung mãnh “hình dáng giống như người, đuôi báo răng hổ nhưng tiếng hú hiền lành, tóc rối đầu đội khăn”. Giới tính của vị hung thần ác sát này thì không thể nhận ra, vì thời xa xưa nam và nữ đều đội trang sức bằng ngọc trên đầu. Tây Vương Mẫu biến thành nữ giới rõ ràng là chuyện về sau này.
东汉未,道教兴起。道徒们看上了西王母,将其请人道门,并奉为尊神。道徒们感到原来怪模怪样的西王母有失尊严,于是穴居野处的怪神一变而为雍容尊贵的天界神仙,并成为女仙领袖。这一衍变是从《穆天子传》开始的。
Cuối thời Đông Hán, Đạo giáo hưng thịnh. Các tín đồ Đạo giáo yêu mến Tây Vương Mẫu, nên đưa bà vào Đạo giáo, còn thờ phụng làm vị thần tôn quý. Các tín đồ Đạo giáo cảm thấy Tây Vương Mẫu uốn có hình dáng kỳ quái sẽ làm mất đi vẻ tôn nghiêm, thế là đã biến đổi vị thần quái dị ở trong hang hoang dãtrở thành thần tiên thiên giới ung dung cao quý, đồng thời trở thành vị thần đứng đầu giới tiên nữ. Diễn biến này bắt đầu từ “Mục Thiên Tử Truyện”.
★女仙领袖
★Vị thần đứng đầu giới tiên nữ
《穆天子传》,又名《周穆王游行记》、《周王传》,成书于战国时期。书中记周穆王西游见西王母之事,途中与西方民族往来和殊方宝山、珍禽怪兽、奇花异草等,均有记录。穆王见西王母不一定实有其事,但因穆王曾经西征,于是把见西王母安在他的身上,形成穆王见西王母的历史传说。这里的西王母不再是半人半兽的怪神,而是一位雍穆之异国人王:穆王执白圭玄璧,以见西王母。西王母再拜受之。穆王借西王母之瑶池举行答谢宴会,西王母高兴地为穆王唱起歌来。但歌中有“虎豹为群,于鹊与处”之类的诗句,看来还未脱尽“兽”味。歌中还有“我惟帝女”的说法,西王母自称是天帝之女,她的身份一下高了许多,而且其性别也明确了,这就是说,她是一位正牌女王。
“Mục Thiên Tử Truyện”, còn có tên là “Chu Mục Vương Du Hành Ký”, “Chu Vương Truyện”, trở thành sách vào thời Chiến Quốc. Trong sách ghi lại câu chuyện Chu Mục Vương tây du gặp Tây Vương Mẫu, trên đường đi đã kết giao với dân tộc phía Tây và ghi chép lại các cảnh núi sông đẹp đẽ , các loài cầm thú kỳ quái, và các loài hoa thơm cỏ lạ. Chuyện Mục Vương gặp Tây Vương Mẫu chưa chắc là có thực, nhưng do Mục Vương đã từng tây chinh nên đem chuyện gặp Tây Vương Mẫu gán ghép cho ông, tạo thành truyền thuyết lịch sử Mục Vương gặp Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu ở đây không còn là vị quái thần nửa người nửa thú mà là một vị vua trang nghiêm đáng kính của một nước khác: Mục Vương cầm nhiều loại ngọc quý đến gặp Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu trân trọng tiếp nhận. Mục Vương mượn Dao Trì của Tây Vương Mẫu để cử hành yến tiệc đáp tạ, Tây Vương Mẫu vui vẻ hát tặng Mục Vương, nhưng trong bài ca có những câu thơ như “hổ báo thành đàn, cùng vui vầy chim khách”, xem ra còn chưa thoát khỏi dư vị của “thú”. Trong bài ca còn có cách nói “Ta là duy nhất nữ đế”, Tây Vương Mẫu tự xưng là con gái của thiên đế, thân phận của bà thoắt cao lên rất nhiều, hơn nữa giới tính cũng rõ ràng, đây chính là nói bà là một vị nữ vương đích thực.
早在汉初,就流传着西王母有不死之药的说法。刘安《淮南子・览冥训》称:
Ngay từ đầu thời Hán đã lưu truyền cách nói Tây Vương Mẫu có thuốc trường sinh bất tử. Lưu An “Lãm Minh Huấn- Hoài Nam Tử” có nói:
羿请不死之药于西王母,姮娥窃以奔月。
Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh ở chỗ Tây Vương Mẫu, Hằng Nga lấy trộm chạy lên cung trăng.
姮娥即嫦娥,是羿的妻子。传说羿从王母那里求得不死之药,未来得及服用,嫦娥偷偷吃了,于是成仙,奔入月中为“月精”。如此,西王母已成为掌有不死之药的西方得道者了。在西汉,人们已把西王母视为女仙人了。为此司马相如还写了一篇《大人赋》,把西王母大大赋了一通。所谓“大人”,即指仙人。这是司马相如为迎合汉武帝好神仙的心理而作,所以武帝读后大悦,“缥缥有凌云之气”。
Hằng Nga tức Thường Nga, là vợ của Hậu Nghệ. Theo truyền thuyết Nghệ ở chỗ Tây Vương Mẫu xin được thuốc trường sinh, chưa kịp dùng, Thường Nga đã lén ăn, thế là thành tiên, bay vào cung trăng thành “nguyệt tinh”. Như vậy, Tây Vương Mẫu đã thành người tây phương đắc đạo có trong tay thuốc trường sinh. Vào thời Tây Hán, mọi người đã xem Tây Vương Mẫu là tiên nữ. Do đó, Tư Mã Tương Như còn viết một bài “Đại Nhân Phú”, viết nhiều về Tây Vương Mẫu. “Đại nhân” tức chỉ tiên. Đây là do Tư Mã Tương Như chiều theo tâm lý yêu thích thần tiên của Hán Võ Đế mà viết nên, cho nên Võ Đế sau khi đọc xong thì rất vui, “thấp thoáng có khí thế ngút trời”.
此时的西王母已不是专司刑法和瘟疫的凶神恶煞,而是一位赐寿降福的福神了。这一转化在西王母神化传说衍变中,具有重要意义。汉时民间已把西王母看成是赐福、赐寿、赐子、化险消灾的女仙。当时著名的卜筮著作《易林》中,即有不少这方面的卦辞。
Tây Vương Mẫu thời đó đã không còn là một hung thần ác sát cai quản hình pháp và ôn dịch, mà là một vị phúc thần ban sự trường thọ và phúc lành. Sự thay đổi này có ý nghĩa quan trọng trong diễn biến truyền thuyết thần hóa Tây Vương Mẫu. Dân gian thời Hán đã xem Tây Vương Mẫu là tiên nữ ban phúc, ban thọ, ban con, giải trừ nguy hiểm tai nạn. Trong trước tác nổi tiếng về bói toán “Dịch Lâm” lúc bấy giờ có không ít những quẻ về mặt này.
西王母的“法宝”,除不死之药以外,又传说还有仙桃,即所谓蟠桃、王母桃。《山海经・西次三经》中即有仙桃的记载:
“Pháp bảo” của Tây Vương Mẫu, ngoài thuốc trường sinh, theo truyền thuyết còn có đào tiên, là loại quả được gọi là bàn đào, đào Vương Mẫu. Trong “Tây Thứ Tam Kinh- Sơn Hải Kinh” có ghi chép về đào tiên:
(不周之山)爱有嘉果,其实如桃,其叶如枣,黄华而赤柎,食之不劳。
Núi Bất Chu hay có quả đẹp, quả như đào, lá như táo, hoa màu vàng mà đài hoa màu đỏ, ăn vào khỏe ra.
北魏・贾思勰《齐民要术》卷十亦称:
Quyển 10 “Tề Dân Yếu Thuật” của Cổ Tư Hiệp thời Bắc Ngụy cũng nói đến:
仙玉桃,服之长生不死。
Đào Tiên ngọc, ăn vào trường sinh bất tử.
仙桃因与西王母有关,故又称“王母桃”。《洛阳伽蓝记》卷一载:“(华林园中)有仙人桃,其色赤,表里照彻,得霜即熟。亦出昆仑山。一曰王母桃。”
Đào tiên do có liên quan với Tây Vương Mẫu, cho nên còn được gọi là “đào Vương Mẫu”. Quyển 1 “Lạc Dương Già Lam ký” có chép: “(trong vườn Hoa Lâm ) có đào tiên nhân, màu đỏ, trong ngoài chiếu thấu, gặp sương là chín, cũng xuất phát từ núi Côn Lôn, gọi là đào Vương Mẫu.”
汉武帝是历史上有名的好仙道皇帝,民间有不少他的传说,西王母的传说与汉武传说的合流,也就不足为奇了。当然,这也显然受到周穆王见西王母传说的影响。《汉武帝内传》说,西王母派使者乘白鹿前来告诉汉武,王母要来做客。七月七日那天,西王母降临,以仙桃四枚给武帝,武帝吃了以后,大饱口福,就把桃核留起来,准备回去叫人种上。西王母笑道:“此桃三千年一生实,中夏地薄,种之不生。”汉武只好作罢。
Hán Võ Đế là vị hoàng đế yêu thích đào tiên có tiếng trong lịch sử, dân gian có không ít truyền thuyết về ông, truyền thuyết Tây Vương Mẫu và truyền thuyết Hán Vũ Đế hợp thành làm một cũng không có gì lạ. Dĩ nhiên, điều này cũng rõ ràng chịu ảnh hưởng của truyền thuyết Mục Vương gặp Tây Vương Mẫu. Trong “Hán Võ Đế Nội Truyện” có nói, Tây Vương Mẫu phái sứ giả cưỡi hươu trắng đến nói với Hán Võ Đế, Vương Mẫu sẽ đến làm khách. Hôm mùng 7 tháng 7, Tây Vương Mẫu giáng lâm, lấy bốn quả đào tiên ban cho Võ Đế, sau khi Võ Đế ăn xong, cảm thấy rất ngon, liền giữ hạt đào lại, chuẩn bị về bảo người trồng. Tây Vương Mẫu cười: “Đào này ba ngàn năm mới kết quả, đất bạc màu Trung Hạ, trồng sẽ không sống được.” Hán Võ Đế đành thôi.
后人常把西王母仙桃称作蟠挑。蟠挑这一名称源于《山海经》和《海内十洲记》。据《海内十洲记》载:
Người đời sau thường gọi đào tiên Tây Vương Mẫu là bàn đào. Tên gọi bàn đào này bắt nguồn từ “Sơn Hải Kinh” và “ Hải Nội Thập Châu Ký”. Theo Hải Nội Thập Châu Ký” viết:
东海有山名度索山,上有大桃树,蟠屈三千里,曰蟠木。
Đông Hải có núi tên Độ Sách Sơn, trên núi có cây đào lớn, uốn khúc ba ngàn dặm gọi là Bàn Mộc .
此时的西王母业已定型,彻底脱离了“兽”气,完全是一派仙气。请看《汉武帝内传》中西王母的出场:
Tây Vương Mẫu lúc này đã định hình, hoàn toàn thoát khỏi tính “thú”, hoàn toàn có phong thái thần tiên. Xin hãy xem sự xuất hiện của Tây Vương Mẫu trong “Hán Võ Đế Nội Truyền”.
王母至也,群仙数千,光耀庭宇。王母唯扶二侍女上殿,侍女年可十六七,服青绫之桂,容眸流盼,神姿清发,真美人也。
Vương Mẫu đến, chư tiên vài ngàn, sáng rực cung điện. Duy chỉ Tây Vương Mẫu chỉ có hai nữ tì dìu lên điện, tì nữ độ chừng 16, 17 tuổi, mặc áo hoa quế vải xanh, ánh mắt long lanh đưa đẩy, tóc xanh, dáng vẻ thanh thoát, đúng thật là người đẹp.
王母上殿东向坐,文采鲜明,光仪淑穆,带灵飞大绶,腰佩分景之剑,头上太华髻,戴太真晨婴之冠,履玄璚凤文之舄。视之可年三十许,修短得中,天姿掩蔼,容颜绝世,真灵人也。
Vương Mẫu lên điện ngồi hướng đông, tươi sáng rực rỡ, dáng vẻ dịu dàng nghiêm trang, thắt dây lưng Linh Phi, lưng đeo gươm Phân Cảnh, đầu búi tóc Thái Hoa, đội mão Thái Chân Thần Anh, giày thêu hình chim phượng. Trông khoảng 30, người tầm thước, điệu bộ nhã nhặn, dung nhan tuyệt trần, đúng là thần tiên.
此时王母俨然为群,仙领袖,她那美丽的仙容一直为后世所沿用。
Lúc này, Tây Vương Mẫu nghiễm nhiên là lãnh tụ của các tiên, dung nhan kiều diễm đó của bà mãi được người đời sau nhắc đến.
道教推崇王母,就要抬高她的出身,于是编撰出王母是道教第一尊神元始元尊之女的神话。东晋葛洪的《枕中书》说,元始天王与太元圣母生扶桑大帝东王公,号曰元阳父。又生九光元女,号曰太真西王母。所治群仙无量也。
Đạo giáo sùng kính Vương Mẫu nên muốn đề cao xuất thân cuả bà, thế là biên soạn ra thần thoại Vương Mẫu là con gái của nguyên thủy thiên tôn, vị thần đệ nhất đạo giáo. “Chẩm Trung Thư” của Cát Hồng thời Đông Tấn nói, Nguyên Thủy Thiên Vương và Thái Nguyên Thánh Mẫu sinh ra Phù Tang Đại Đế Đông Vương Công, hiệu là Nguyên Dương Phụ, lại sinh Cửu Quang Nguyên Nữ, hiệu là Thái Chân Tây Vương Mẫu, là người cai trị quần tiên rộng lớn.
道教把王母奉为女仙之宗,而男仙之宗即玉皇大帝,玉皇一说又叫东王公。道教宣称,此二尊神乃阴阳之父母,天地之本源,化生万灵,育养群品。(《集说诠真》引《仙传拾遗》)又说王母居昆仑之间,有城千里,玉楼十二。左侍仙女,右侍羽童。三界十方女子登仙得道者,都是她的属下。
Đạo giáo thờ Vương Mẫu như là tổ tông của giới tiên nữ, mà tổ tông của giới tiên nam chính là Ngọc Hoàng Đại Đế, có một truyền thuyết gọi Ngọc Hoàng là Đông Vương Công. Đạo giáo tuyên bố rằng hai vị thần này là cha mẹ của âm dương, là nguồn gốc của trời đất, biến hóa tạo ra muôn loài, nuôi dưỡng muôn vật. (“Tập Thuyết Thuyên Chân” dẫn “Tiên Truyện Thập Di”) lại nói Tây Vương Mẫu ở giữa Côn Luân, có thành ngàn dặm, lầu ngọc 12 tầng. Bên trái có tiên nữ phò trì, bên phải có tiên đồng hầu hạ. Những người con gái đắc đạo thành tiên trong tam giới thập phương đều là thuộc hạ của bà.
按说,王母据称是由“西华至妙至气”而化生,当然不是肉体凡胎,照理不该有什么男女情欲,夫妻之道。但人们既要把她神化,抬得极高,又要将其世俗化,把她与玉帝配成夫妻,过着天界的夫妻生活,有如人间帝后。还让他们生了七个女儿,其中最小的七仙女最有名,她私自下凡嫁给了穷人董永,俩人男耕女织,小日子过得正好。不料,玉帝和王母知道了,硬逼着她返回天廷,生生拆散了这对恩爱小夫妻。这个传说故事出自三国・曹植的《灵芝篇》和汉・刘向的《孝子传》、晋・干宝《搜神记》等书。这里的王母娘娘同玉皇大帝一样,成为封建专制的代表,是个令人厌恶的形象。
Theo truyền thuyết Vương Mẫu nghe nói là do “Tây Hoa chí diệu chí khí” biến hóa ra, dĩ nhiên không phải là phàm thai nhục thể, theo lý không nên có tình dục nam nữ, không có đạo vợ chồng gì cả. Nhưng mọi người muốn thần hóa bà, đưa lên cấp cao, lại muốn thế tục hóa bà, nên cho bà và Ngọc Đế thành vợ chồng, trải qua cuộc sống vợ chồng trên thiên giới, giống như vua và hoàng hậu dưới nhân gian. Còn để họ sinh ra bảy người con gái, trong đó người nổi tiếng nhất là thất tiên nữ nhỏ nhất, nàng tự ý xuống trần lấy chàng Đổng Vĩnh nghèo hèn, hai vợ chồng người cày ruộng người dệt vải, sống cuộc đời bình dị thật hạnh phúc. Không ngờ, Ngọc Hoàng và Vương Mẫu biết được, ép nàng trở về thiên đình, đời đời chia rẽ đôi vợ chồng yêu thương nồng thắm. Câu chuyện truyền thuyết này xuất phát từ các sách như “Thiên Linh Chi” của Tào Thực thời Tam Quốc, “Hiếu Tử Truyện” của Lưu Hướng thời Hán, “Sưu Thần Ký” của Can Bảo thời Tấn. Vương Mẫu Nương Nương ở đây giống như Ngọc Hoàng Đại Đế, đã trở thành đại diện của chế độ phong kiến chuyên chế, là hình tượng khiến người ta cảm thấy chán ghét.
