Mấu chốt thành công

成功的关键 — MẤU CHỐT THÀNH CÔNG

(一)一位电台广播员在她的30年职业生涯中,曾遭辞退18次,可是每次事后她都放眼更高处,确立更远大的目标。

1. Một nhân viên đài phát thanh ba mươi năm hành nghề, đã từng bị sa thải mười tám lần. Nhưng sau mỗi lần như thế, cô càng có tầm nhìn cao hơn, xác lập mục tiêu xa hơn.

由于美国大陆的无线电台都认为女性不能吸引听众,没有一家肯雇用她,她就迁到波多黎各去,苦练西班牙语。有一次,一家通讯社拒绝派她到多米尼加共和国采访一次暴乱事件,她便自己凑够旅费飞到那里去,然后把自己的报道出售给电台。

Do các đài phát thanh ở Đại lục Mỹ đều cho rằng nữ giới không thu hút được người nghe, nên không nơi nào chịu tuyển dụng cô. Cô chuyển đến Puerto Rico, khổ công học tiếng Tây Ban Nha. Có một lần, một hãng thông tấn đã từ chối phái cô đến phỏng vấn một sự kiện bạo loạn ở nước Cộng hòa Dominica, cô bèn tự mình gom đủ chi phí bay đến đó, sau đó đem bài báo của mình bán cho đài phát thanh.

1981年,她遭纽约一家电台辞退,说她跟不上时代,结果失业了一年多。有一天,她向一位国家广播公司电台职员推销她的清谈节目构想。

Năm 1981, cô bị một đài phát thanh ở NewYork cho thôi việc, họ nói cô không theo kịp thời đại, kết quả cô thất nghiệp hơn một năm. Một hôm, cô tiếp thị ý tưởng về tiết mục tọa đàm trên đài của mình với một nhân viên đài phát thanh của công ty truyền thanh quốc gia.

“我相信公司会有兴趣,”那人说。但此人不久就离开了国家广播公司。后来她碰到该电台的另一位职员,再度提出她的构想。此人也夸奖那是个好主意,但是不久此人也失去了踪影。最后她说服第三位职员雇用她,此人虽然答应了,但提出要她在政治台主持节目。

“Tôi tin là công ty sẽ có hứng thú”, người đó nói. Nhưng người này không bao lâu đã rời khỏi công ty truyền thanh quốc gia. Sau đó ,cô gặp một nhân viên khác của đài phát thanh này, cô lại đưa ra ý tưởng của mình. Vị này cũng khen đây là một ý tưởng hay, nhưng chẳng bao lâu người này cũng mất tông tích. Sau cùng, cô thuyết phục được người thứ ba tuyển dụng cô. Người này tuy đồng ý, nhưng muốn cô phụ trách tiết mục ở đài chính trị.

“我对政治所知不多,恐怕很难成功。”她对丈夫说。丈夫热情鼓励她尝试一下。1982年夏天,她的节目终于启播了。她对广播早已驾轻就熟。于是她利用这长处和平易近人的作风,大谈7月4日美国国庆对她自己有什么意义,又请听众打电话来畅谈他们的感受。

“Em không biết nhiều về lĩnh vực chính trị, sợ rất khó thành công.” – Cô nói với chồng. Người chồng nhiệt tình động viên cô hãy thử xem. Mùa hè năm 1982, tiết mục của cô cuối cùng cũng được phát sóng. Từ lâu cô đã quá quen thuộc với việc phát thanh. Thế là cô dùng sở trường này cùng tác phong bình dị gần gũi, bàn luận sôi nổi về ngày quốc khánh Mỹ 7/4 đối với bản thân cô có ý nghĩa gì, cô còn mời thính giả gọi điện thoại đến chia sẻ thoải mái cảm nhận của họ.

听众立刻对这个节目发生兴趣,她差不多一举成名。如今,莎莉・拉斐尔已成为自办电视节目的主持人,曾经两度获奖,在美国、加拿大和英国每天有800万观众收看这个节目。

Thính giả lập tức có hứng thú với tiết mục này, cô gần như một bước thành danh. Đến nay, Sally Raphael đã trở thành người dẫn chương trình tự biên tập tiết mục truyền hình, từng hai lần nhận giải thưởng. Tại Mỹ, Canada và Anh, mỗi ngày có đến tám triệu khán giả xem tiết mục này.

“我遭人辞退了18次,本来大有可能被这些遭遇所吓退,做不成我想做的事情,”她说,“结果相反,我让它们鞭策我勇往直前。”

“Tôi bị người ta cho thôi việc mười tám lần, vốn rất có thể bị những cảnh ngộ này làm cho mình sợ hãi thoái lui, không làm được những điều tôi muốn làm,” – cô nói, “Kết quả ngược lại, chúng đã khích lệ tôi dũng cảm tiến thẳng về phía trước.”

成功的人态度积极,旁人也会感觉得到,于是都乐意帮助他们实现梦想。

Người thành công có thái độ tích cực, người bên cạnh cũng sẽ cảm nhận được, thế là đều vui vẻ giúp đỡ họ thực hiện ước mơ.

(二)他叫乔・巴普,母亲是裁缝,父亲是穷工匠,他在纽约市贫民区的学校半工半读念完高中。他热爱戏剧,非常渴望能去看一场百老汇的表演,但是买不起门票。他凭着无穷的精力和意志,当上了电视台的舞台监督。不过他希望为那些像他那样永远买不起门票去看百老汇戏剧表演的人创作一些戏。

2. Anh tên Qiáo Bā Pǔ, mẹ làm thợ may, cha là thợ thủ công nghèo. Anh vừa học vừa làm, học hết phổ thông ở một trường học trong khu ổ chuột của thành phố NewYork. Anh say mê kịch nói, luôn khao khát được đi xem một suất biểu diễn của Broadway, nhưng mua không nổi vé vào cửa. Dựa vào ý chí và sức lực dồi dào, anh đã trở thành giám sát sân khấu của đài truyền hình. Nhưng anh hi vọng có thể sáng tác vài vở kịch cho những người mãi mãi không mua nổi vé vào cổng để xem kịch của Broadway giống như anh .

他办了一个剧团,先是在教堂的地下室演出,后来租了个露天圆形剧场来表演。剧团初期演出莎士比亚的戏剧,很受观众欢迎,却没有剧评家来观看。他想,要是没有宣传,又怎会有人肯捐助演出经费呢?

Anh đã thành lập một đoàn kịch, đầu tiên là biểu diễn ở tầng hầm các nhà thờ, sau đó thuê các rạp bạt tròn ngoài trời biểu diễn. Thời gian đầu, đoàn kịch diễn các vở kịch của Shakespeare, rất được công chúng hoan nghênh, nhưng lại không có nhà phê bình kịch nào đến xem. Anh nghĩ nếu không có tuyên truyền thì làm sao có người chịu hỗ trợ kinh phí biểu diễn đây?

因此有一天,他找上了《纽约时报》,指名要见戏剧评论家布鲁克斯・艾金生。艾金生的助手亚瑟・吉尔布说他要见的剧评家当时正在伦敦。

Do đó, một hôm, anh tìm đến tòa báo “NewYork Times”, chỉ đích danh muốn gặp nhà bình luận kịch Brooks Atkinsor. Trợ lý của Brooks Atkinson là Ather Gilb nói nhà phê bình kịch mà anh muốn gặp lúc này đang ở Luân Đôn.

“那我就在这里等艾金生先生回来。”他坚决地说。吉尔布于是请他道明来意。这位工匠的儿子激动地说他剧团的演员如何优秀,观众的掌声如何热烈;又说他的观众大多数是从未看过真正舞台剧的移民,如果《纽约时报》不写剧评介绍他的戏,他就没有经费再演下去了。吉尔布看到他这样坚决,大为感动,同意那天晚上去看他的戏。

“Vậy tôi ở đây đợi Atkinson trở về.” Anh kiên quyết nói. Thế là Ather Gilb mời anh nói rõ ý của mình. Con trai người thợ thủ công kể một cách xúc động rằng những diễn viên ở đoàn kịch của anh ưu tú như thế nào, tiếng vỗ tay của khán giả nhiệt liệt ra sao; còn nói khán giả của anh đại đa số là những di dân chưa từng được xem kịch ở một khán phòng thật sự, nếu như tờ “NewYork Times” không viết bài bình luận giới thiệu về đoàn kịch của anh thì anh sẽ không có kinh phí để biểu diễn tiếp. Gilb thấy anh kiên quyết như vậy nên rất cảm động, đồng ý tối hôm đó đi xem kịch của anh.

吉尔布到达露天剧场时,天上乌云密布,中场休息时,滂沱大雨把舞台浸湿了。他一见吉尔布跑开去避雨,就赶上去说:“我知道剧评家平常是不会评论半场演出的,不过我恳求你无论如何破个例。”

Khi Gibl đến sân khấu biểu diễn ngoài trời thì mây đen giăng kín cả bầu trời. Trong giờ giải lao, mưa như trút nước làm ướt đẫm cả sân khấu. Anh vừa nhìn thấy Gilb chạy đi trú mưa liền đuổi theo nói: “Tôi biết nhà bình luận kịch thì thường là không thể bình luận nửa buổi biểu diễn, nhưng tôi khẩn cầu ông hãy phá lệ một lần.”

那天夜里,吉尔布写了一篇简短介绍,对那半场戏颇多好评,又提到剧团亟需资助。第二天,就有人给剧团送去了一张750美元的支票。在1956年,这笔钱已足够剧团继续演出这场戏,一直到夏季结束。艾金生从伦敦回来后,去看了这场戏,并在他的星期天专栏里大赞这出戏。

Trong đêm đó, Gilb đã viết một bài giới thiệu ngắn, đưa ra những đánh giá tốt về nửa vở kịch đó, lại còn đề cập đến vấn đề đoàn kịch rất cần sự tài trợ. Ngày hôm sau có người cho đoàn kịch tờ chi phiếu 750 đô la Mỹ. Vào năm 1956, số tiền này đã đủ cho đoàn kịch tiếp tục biểu diễn vở kịch này. Mãi cho đến hết mùa hè. Atkinson sau khi từ Luân Đôn trở về, đi xem kịch ở sân khấu này, và trong chuyên mục ngày chủ nhật của mình, ông ấy đã hết sức tán thưởng suất diễn này.

没多久,乔・巴普就开始在纽约各处经常免费演出莎士比亚名剧。他于1991年去世,死前一直是美国戏剧界深具影响力的人物。他曾经说过,他坚持不懈是因为他深信戏剧对人们生活很重要。“如果你不相信这一点,那么就此放弃算了。”

Không bao lâu, Qiáo Bã Pủ bắt đầu thường xuyên cho biểu diễn miễn phí những vở kịch nổi tiếng của Shakespeare ở khắp New York. Ông qua đời năm 1991. Trước khi mất, ông luôn là một nhân vật có sức ảnh hưởng sâu rộng trong giới kịch nghệ của Mỹ. Ông từng nói rằng, ông kiên trì không mệt mỏi là vì ông tin chắc rằng kịch rất quan trọng đối với cuộc sống con người. “Nếu như bạn không tin vào điểm này, thế nào cũng sẽ vứt bỏ nó thôi.”

(三)成功的人都知道,坚定不移涉及到抉择,而抉择则涉及风险,正如一位58岁的农产品推销员所发现的。

3. Những người thành công đều biết, sự kiên định có liên quan đến sự chọn lựa, còn sự chọn lựa thì liên quan đến rủi ro, đúng như điều mà một nhân viên tiếp thị nông sản 58 tuổi đã phát hiện.

他以不同品种的玉米做实验,设法制造出一种较轻、较松的爆玉米花。他终于培育出理想的品种,可是没有人肯买,因为成本较高。

Ông lấy những loại ngô khác nhau làm thí nghiệm, tìm cách tạo ra một loại bỏng ngô khá nhẹ, và xốp. Cuối cùng ông đã cho ra một sản phẩm lý tưởng, nhưng không người nào chịu mua vì giá thành khá cao.

“我知道只要人们一尝到这种爆玉米花,就一定会买。”他对合伙人说。

“Tôi biết chỉ cần người ta nếm thử loại bỏng ngô này thì nhất định sẽ mua nó.” – Ông nói với cộng sự.

“如果你这么有把握,为什么不自己去销售?”合伙人回答道。

“Nếu như anh nắm chắc như vậy, sao không tự đi tiếp thị?”. Cộng sự trả lời.

万一他失败了,他可能要损失很多钱。在他这个年龄,他真想冒这样的险吗?

Lỡ như thất bại, ông có thể sẽ tổn thất rất nhiều tiền. Ở độ tuổi này, ông ấy có thật sự muốn mạo hiểm như thế không?

他雇用了一家营销公司为他的爆玉米花设计名字和形象。不久,奥维尔・瑞登巴克就在全美国各地销售他的“美食家爆玉米花”了。今天,它是全世界最畅销的爆玉米花,这完全是瑞登巴克甘愿冒险的成果,他拿了自己所有的一切去做赌注,换取他想要的东西。

Ông thuê một công ty kinh doanh giúp ông thiết kế hình tượng và đặt tên cho loại bỏng ngô của ông. Chẳng bao lâu, Orwille Redenbacher đã tiêu thụ được loại bỏng ngô của ông trên khắp nước Mỹ. Ngày nay, nó là loại bỏng ngô bán chạy nhất trên thế giới. Đây hoàn toàn là thành quả nhờ dám mạo hiểm của Redenbacher. Ông đã đem tất cả những gì mình có đi đánh cược, đổi lấy thứ ông muốn.

“我想,我之所以干劲十足,主要是因为有人说我不能成功,”现年84岁的瑞登巴克说,“那反而使我决心要证明他们错了。”

“Tôi nghĩ, sở dĩ tôi hăng hái, chủ yếu là do có người nói tôi không thể thành công.” Ông Redenbacher hiện đã tám mươi tư tuổi nói, “Điều đó ngược lại khiến tôi quyết tâm phải chứng minh rằng họ đã sai .”

Lên đầu trang