日本茶道 — TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN

茶道有繁琐的规程,茶叶要碾得精细,茶具要擦得干净,主持人的动作要规范,既要有舞蹈般的节奏感和飘逸感,又要准确到位。茶道品茶很讲究场所,一般均在茶室中进行。接待宾客时,待客人入座后,由主持仪式的茶师按规定动作点炭火、煮开水、冲茶或抹茶,然后依次献给宾客。客人按规定须恭敬地双手接茶,先致谢,尔后三转茶碗,轻品、慢饮、奉还。点茶、煮茶、冲茶、献茶,是茶道仪式的主要部分,需要专门的技术和训练。饮茶完毕,按照习惯,客人要对各种茶具进行鉴赏,赞美一番。最后,客人向主人跪拜告别,主人热情相送。

Trà đạo có một quy trình rất phức tạp, lá trà phải được nghiền thật nát, bộ đồ uống trà phải được lau thật sạch, động tác của người pha trà phải đúng với quy tắc, vừa phải thanh thoát và có tiết tấu như vũ đạo vừa phải hết sức chuẩn xác. Cách uống trà trong Trà đạo rất chú trọng đến nơi uống trà, thông thường được thực hiện trong “Trà thất” (phòng trà). Khi đãi khách, đợi sau khi khách đã ngồi vào chỗ, nghệ nhân Trà đạo sẽ thực hiện nghi thức nhóm lửa, nấu nước, pha trà hoặc nghiền trà theo cách thức quy định, sau đó lần lượt mời trà các vị khách. Theo lễ, khách sẽ cung kính đưa hai tay nhận trà và cám ơn trước, sau đó xoay tách trà 3 lần, nhấm trà, uống từ từ, lịch sự trả lại tách trà. Nhóm lửa, nấu nước, pha trà, dâng trà là các nghi thức chính trong Trà đạo, cần có sự luyện tập và kĩ thuật chuyên môn. Sau khi uống trà xong, theo thông lệ, khách phải có sự nhận xét và khen ngợi các bộ đồ uống trà. Sau cùng, khách sẽ quỳ lạy cáo từ chủ nhà, chủ nhà sẽ nồng nhiệt tiễn khách.

日本茶道是在“日常茶饭事”的基础上发展起来的,它将日常生活与宗教、哲学、伦理和美学联系起来,成为一门综合性的文化艺术活动。它不仅仅是物质享受,主要是通过茶会和学习茶礼来达到陶冶性情、培养人的审美观和道德观念的目的。正如桑田中亲说的:“茶道已从单纯的趣味、娱乐,前进为表现日本人日常生活文化的规范和理想。”十六世纪末,千利休继承历代茶道精神,创立了日本正宗茶道。他提出的“和敬清寂”,用字简洁而内涵丰富。“清寂”是指冷峻、恬淡、闲寂的审美观;“和敬”表示对来宾的尊重。  

Trà đạo Nhật Bản được phát triển trên cơ sở “chuyện cơm nước thường ngày”, nó kết hợp cuộc sống thường nhật với tôn giáo, triết học, luân lí và mĩ học, trở thành một hoạt động văn hóa nghệ thuật mang tính tổng hợp. Nó không chỉ là sự hưởng thụ vật chất mà chủ yếu thông qua tiệc trà và việc học các lễ nghi Trà đạo để đạt đến mục đích rèn luyện tính tình, bồi dưỡng quan niệm thẩm mĩ và quan niệm đạo đức của con người. Đúng như Kuwa Tanakashin đã nói rằng: “Trà đạo đã đi từ sở thích và sự giải trí đơn thuần tiến tới việc thể hiện lí tưởng và chuẩn mực văn hóa trong đời sống thường ngày của người Nhật.” Cuối thế kỉ 16, Senno Rikyu kế thừa tinh thần Trà đạo qua các thời đại, sáng lập ra Trà đạo chính thống Nhật Bản. Quy tắc “Hòa kính thanh tịch” ông nêu ra ngắn gọn trong cách dùng từ mà có nội hàm phong phú. “Thanh tịch” chỉ quan điểm thẩm mĩ tĩnh lặng, điềm đạm, nhàn nhã; “hòa kính” thể hiện sự tôn trọng đối với khách.

日本茶道大概是喝饮料最复杂的方式了。作为一个中国人,你很难想象喝茶要有那么正式的仪式,要有那样多的礼法。要进行一次日本茶会,一座合乎规矩的花园别墅是不可少的,参加茶会,你能吃到三碗米饭、一碗锅巴泡饭、一盘凉拌菜、两个炖肉丸子、三段烤鱼、一堆腌萝卜块、一些咸菜、几个蘑菇、少许海味、三碗大酱汤和一碗清汤、一道甜点、还有二两清酒,然后你还可以去参观花园,并且特意去厕所看看…这些活动要花去你四小时的时间,而整个茶会里你喝到了两次约一百毫升茶水,你一生也不会喝到比这更难喝的东西了。整个茶会期间,从主客对话到杯箸放置都有严格规定,甚至点茶者伸哪只手、先迈哪只脚、每一步要踩在榻榻米的哪个格子里也有定式,正是定式不同,才使现代日本茶道分成了二十来个流派。十六世纪前的日本茶道还要繁琐得多,现代茶道是经过千利休删繁就简的改革才成为现在的样子。

Trà đạo Nhật Bản có lẽ là phương thức uống phức tạp nhất. Nếu là một người Trung Quốc, bạn sẽ khó tưởng tượng được rằng uống trà lại có nghi thức chính thức và nhiều quy tắc lễ nghi như vậy. Để tổ chức một bữa tiệc trà thì không thể thiếu một ngôi nhà có vườn hoa hợp quy củ, tham gia tiệc trà, bạn có thể ăn được 3 bát cơm, 1 bát cơm cháy nước lèo, một đĩa rau trộn, 2 viên thịt hầm, 3 khúc cá nướng, một mớ củ cải muối, vài món mặn, mấy cây nấm, mấy món hải sản, 3 bát canh tương và một bát canh suông, một món ngọt, còn có vài ba ly rượu, sau đó bạn có thể đi tham quan vườn hoa, hơn nữa còn đặc biệt đi xem nhà vệ sinh… Những hoạt động này sẽ tốn của bạn 4 tiếng đồng hồ, mà cả buổi tiệc bạn sẽ chỉ uống trà 2 lần độ khoảng 100 ml trà, cả đời bạn sẽ không thể uống được thứ nào khó uống hơn thế. Trong cả buổi tiệc, từ việc chuyện trò giữa chủ và khách cho đến vị trí đặt cốc và đũa đều có những quy định nghiêm ngặt, thậm chí người pha trà giơ tay nào, bước chân nào trước, mỗi bước phải giẫm lên ô nào của chiếu Tatami cũng có cách thức nhất định, chính vì cách thức quy định không giống nhau nên Trà đạo Nhật Bản hiện đại được chia thành gần 20 trường phái. Trà đạo Nhật Bản trước thế kỉ 16 còn phức tạp rắc rối hơn nhiều, Trà đạo hiện đại đã trải qua sự cải cách bỏ sự rườm rà làm cho đơn giản của Senno Rikyu mới trở thành như hiện nay.

茶叶由遣唐使传入日本,正在日本全面学习中国大陆文明的时期,茶是舶来品,珍贵且新奇,喝茶是时髦行为,而请人喝茶无异于摆阔。贵族家里有几斤茶叶,那是身份财富的象征。泊来的茶叶经过长途运输,味道难以保证,数量又有限,茶会的重点自然也就转到大吃大喝的宴会上去了。日本贵族的饮食以生冷油腻为主,净是生鱼刺块(就是大块生肉,后来多切几刀就改叫刺身),茶能化油,为宴会后的消食佳品。以后宋代点茶法传入,点出的茶水又太浓,空腹喝会很刺激胃粘膜,所以喝茶与吃炖肉倒也相得益彰。千利休发明了传饮法,就是一碗茶端上来,不管有多少人,都必须从碗的同一位置喝茶,传到最后一人要正好喝完。这种喝法令与会的武士们有些歃血为盟的感觉,而量的掌握尤为重要,武士都很重视尊严,座位靠后的人喝不到,难免械斗,或者至少切腹,血溅当场。

Lá trà do các sứ giả được phái sang nhà Đường truyền vào Nhật Bản, chính vào thời kì Nhật Bản đang học tập toàn diện nền văn minh của Trung Quốc Đại Lục, trà là vật phẩm được du nhập, vừa quý vừa mới lạ, uống trà là hoạt động thời thượng, mà người uống trà không khác gì việc khoe của. Trong các gia đình quý tộc có mấy cân trà, đó là biểu tượng của thân phận giàu có. Lá trà được vận chuyển một thời gian dài trên tàu, hương vị khó đảm bảo, số lượng lại có hạn, trọng điểm các buổi tiệc trà đương nhiên cũng chuyển sang những buổi tiệc tùng lớn. Việc ăn uống của các quý tộc Nhật Bản chủ yếu là các thứ tươi sống và nhiều dầu mỡ, toàn là cá sống chặt miếng ( tức là một miếng cá sống lớn, sau đó cắt vài nhát đổi tên gọi là Sashimi), trà có thể tiêu hóa dầu mỡ, là thứ rất tốt để tiêu hóa thức ăn sau bữa tiệc. Sau này cách pha trà được truyền vào từ đời Tống, trà pha ra có vị nồng đậm, uống lúc bụng đói sẽ kích thích niêm mạc dạ dày, vì vậy uống trà chung với ăn thịt hầm cũng rất có lợi. Cách uống trà truyền bát do Senno Rikyu nghĩ ra chính là bưng chuyền một tách trà, dù có bao nhiêu người cũng phải uống trà ở cùng một vị trí chén, chuyền đến người cuối cùng cũng đúng lúc uống hết trà. Cách uống trà này khiến các võ sĩ (samurai) trong tiệc trà có cảm giác như uống máu ăn thề, do đó việc nắm bắt lượng trà uống hết sức quan trọng, võ sĩ rất coi trọng sự tôn nghiêm, người ở vị trí sau không uống được sẽ khó tránh khỏi ẩu đả hoặc chí ít sẽ mổ bụng, máu me tung tóe.

九世纪后期,日本停派遣唐使。这时官方单向的学习停止,民间双向的交流开始。日本的岛国文明不同于中国的大陆文明。中国地大人多,物产丰饶,自然有无数发明,也经得起浪费,而日本弹丸小岛,不能首创,亦无资源,就必须把学来的东西发挥到极致,必须举一而反三。所以九世纪后日本虽然还在学习中国的新文明,却也开始加上自己的特色。现在我们看日本的传统建筑,觉出与中原不同,却也说不上差别何在,大约室町时代的日本人看这些建筑,就和北京人看西客站差不多。同样,面对一种食物,中国人想到的,往往是怎样吃,从而满足身心,而日本人想的,却是怎样由此而提升自身,故尔茶在中国可以是工夫茶可以是三泡台总是饮料,在日本却成了禅茶一体的茶道。

Thời kì sau thế kỷ thứ chín, Nhật Bản ngưng việc sai sứ sang nhà Đường. Lúc này việc đi học tập của các quan lại dừng lại, hoạt động giao lưu hai chiều trong dân gian bắt đầu. Nền văn minh của đảo quốc Nhật Bản không giống với nền văn minh của Trung Quốc Đại Lục. Trung Quốc đất rộng người đông, sản vật phong phú, tất nhiên sẽ có vô số phát minh và cũng chịu sự lãng phí, còn Nhật Bản chỉ là một đảo quốc nhỏ bé, không thể có những sáng tạo đầu tiên và cũng không có tài nguyên, do đó cần phải phát huy triệt để những thứ học được, cần phải từ một mà suy ra mười. Vì vậy, sau thế kỉ thứ chín, tuy Nhật Bản vẫn còn học tập nền văn minh mới của Trung Quốc nhưng cũng bắt đầu thêm vào những đặc sắc riêng của mình. Bây giờ chúng ta nhìn những kiến trúc truyền thống của Nhật Bản, cảm thấy có sự khác biệt với Trung Nguyên, nhưng rất khó nói được là khác nhau ở chỗ nào, có lẽ người Nhật Bản thời Muro Machi nhìn những công trình kiến trúc này cũng không khác mấy với người Bắc Kinh nhìn dịch trạm của khách châu Âu. Tương tự như vậy, khi nhìn một loại thức ăn thì điều người Trung Quốc nghĩ đến thường là ăn như thế nào, từ đó thỏa mãn bản thân, còn người Nhật lại nghĩ làm cách nào để từ đó nâng cao bản thân mình. Do vậy, ở Trung Quốc, trà có thể là trà “Công phu” (một cách pha chế trà của người Trung Quốc rất công phu và tỉ mỉ), có thể là “Tam bào đài” (bộ đồ uống trà có nắp đậy), nhưng chung quy cũng vẫn là thức uống, còn ở Nhật Bản lại trở thành Trà đạo, dạng hợp nhất của Trà và Thiền.

如果不是村田珠光到千利休,把禅的内涵引入茶道,那么今天流传的可能就是日本料理道,席间的茶水也早被可乐代替了。日本人选择茶来赋予特殊意义,几乎就是因为它难喝。只要理解了禅,就不难理解日本茶道。甚至可以说,不难理解整个远东文明。

Nếu không phải Murata Juko đến Senno Rikyu, đưa nội hàm của Thiền vào Trà đạo, thì ngày nay còn lưu truyền lại có thể chỉ là “cách xử lý trà Nhật Bản”, trong các bữa tiệc, trà đã bị Coca cola thay thế. Người Nhật chọn trà là để gởi gắm một ý nghĩa đặc biệt, dường như chính là vì nó rất khó uống. Chỉ cần hiểu được “Thiền” thì sẽ không khó lí giải Trà đạo Nhật Bản. Thậm chí có thể nói là không khó để lí giải được cả một nền văn minh phương Đông xa xôi.

由于寺院禅宗的影响,人们常常过分注意禅和佛教的联系。其实禅具有全部中国文化的背景,比之佛教,禅与儒家思想的关系更深。子曰:“逝者如斯夫,不舍昼夜”。孔子是有记载以来第一个参悟了禅的人。世界本来也许是有一个终极真理的,如果人能够完全理解这个真理,那么人世就是天堂。可惜人寿有限,我们短暂的一生不足以完全领悟所有的道,这个矛盾是人类所有哲学的根源问题。佛讲轮回,基督讲末日审判,阴阳家讲长生登仙,马克思讲共产主义。儒家的解决办法是薪尽火传,也就是前人根据自己的经验制定规则,后人通过遵循这些规则,可以从比前人更高的起点,去领悟人生,从而更加接近真理。然而后人怎能理解前人制定的准则呢?这些准则如何不成为对人的束缚呢?孔子也说,自己到了晚年才能随心所欲而不越矩。儒家在此与禅汇合,人必须先遵循一些规矩,修炼自己的本质,遏制欲望的目的是使欲望不必遏制,当人达到随心所欲而不越矩时,规矩就不存在了。这也就是禅宗公案里的“勿使染尘埃”和“本来无一物”的两个境界。人只有通过不断地拂拭内心,才能最终令尘埃无可染之处。

Do sự ảnh hưởng của Thiền tông trong chùa chiền, mọi người thường quá chú ý đến mối quan hệ giữa Thiền và Phật giáo. Thật ra Thiền có bối cảnh của toàn bộ nền văn hóa Trung Quốc, so với Phật giáo, Thiền có mối quan hệ với tư tưởng Nho gia sâu sắc hơn. Khổng Tử nói: “Thệ giả như tư phu, bất xả trú dạ” (Thời gian giống như dòng nước chảy, chảy mãi không ngừng nghỉ bất kể ngày đêm- Ngụ ý muốn nói thời gian như dòng nước trôi đi không bao giờ trở lại, cần phải biết quý trọng hơn). Khổng Tử là người ngộ được Thiền đâu tiên từ khi có ghi chép đến nay. Trên thế giới vốn dĩ có lẽ có một chân lý cùng cực, nếu như con người có thể hoàn toàn hiểu được chân lý này, thì nhân gian chính là thiên đường. Đáng tiếc là tuổi thọ con người có hạn, cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta không đủ để lĩnh ngộ hết tất cả các đạo lý, mâu thuẫn này chính là vấn đề khởi nguồn của tất cả các nhà triết học. Phật giáo nói đến luân hồi, Thiên Chúa giáo nói đến sự phán xét ngày tận thế, Âm Dương gia nói đến sự trường sinh thành tiên, K. Mác nói đến Chủ nghĩa Cộng sản. Cách giải quyết của Nho gia là truyền lại cho thế hệ sau, tức là người xưa dựa vào những kinh nghiệm của mình để đặt ra những quy tắc, người đời sau thông qua việc tuân thủ những quy tắc này, để có thể từ khởi điểm cao hơn người xưa mà lĩnh hội cuộc sống, từ đó đến gần chân lý hơn. Nhưng người đời sau làm cách nào lý giải được những chuẩn mực mà người xưa định ra? Những chuẩn mực này làm thế nào để không trở thành sự trói buộc của con người? Khổng Tử cũng nói, bản thân ông đến cuối đời mới có thể làm theo ý mình mà không vượt khỏi các quy tắc. Tư tưởng của Nho gia và Thiền tụ hội nhau ở điểm này, con người trước hết cần phải tuân theo một số quy tắc, tu dưỡng rèn luyện bản chất của mình, mục đích của việc kìm nén dục vọng là khiến cho dục vọng không cần phải kìm nén, khi con người đạt đến độ tự do hành động mà không vượt qua các quy tắc, thì các quy tắc sẽ không còn tồn tại. Đây cũng chính là hai cảnh giới “đừng để nhiễm bụi trần” và “vốn dĩ không có một vật” trong “Công án” của Thiền tông. Con người chỉ có thể không ngừng phủi sạch tâm của mình, cuối cùng mới có thể khiến cho bụi trần không có chỗ nào bám nhiễm vào được.

所以茶道里禅的内涵,不在于什么“直心就是禅”,什么“喝茶去”,而是通过繁琐的规则来磨练人心,当这些定规不再令饮茶者厌烦,当饮茶人信手而符合茶道礼法时,才算领会了茶的真谛,才能喝到一杯好茶。繁复而熟练的礼法是为了使人超然物外,浓如苦药的茶汤正如人生,别出心裁的插花显示有限的生命背后人类生生不息的生命力,捧喝的偈语告诉人处处是真理。日本茶道,是用一种仪式来向人讲述禅的思想,正如参禅需要顿悟一样,其中蕴涵的那些人生的经验,需要饮茶者用生命的一段时光来领悟。

Bởi vậy nội hàm của “Thiền” trong Trà đạo không ở chỗ cái gì là “trực tâm (tâm ngay) chính là Thiền”, hay cái gì là “uống trà đi” gì cả, mà là thông qua những quy tắc rối rắm để rèn luyện cái tâm, khi những quy tắc này không còn khiến những người uống trà thấy phiền phức nữa, khi người uống trà thực hiện một cách tự nhiên mà lại phù hợp với các nguyên tắc trong Trà đạo, mới được xem là lĩnh hội được cái chân của trà, và mới có thể thưởng thức được một ly trà ngon. Những lễ nghi phức tạp và nhuần nhuyễn là để khiến con người thoát ra khỏi vật chất tầm thường, nước trà nồng như thuốc đắng cũng giống như đời người, cách cắm hoa độc đáo thể hiện sức sống mãnh liệt của con người phía sau cuộc đời hữu hạn, những lời kệ khi dâng trà nói cho mọi người biết rằng đâu đâu cũng là chân lý. Trà đạo Nhật Bản là dùng một nghi thức để giảng giải tư tưởng Thiền đến mọi người, cũng giống như tham Thiền cần phải đốn ngộ, những kinh nghiệm cuộc sống ẩn chứa trong đó, đòi hỏi người uống trà phải dùng thời gian cả đời để lĩnh hội.

Lên đầu trang