梅花 — HOA MAI

Mỗi độ xuân về Tết đến, một trong những món ăn tinh thần không thể thiếu đó là hoa. Hầu như nhà nào cũng trang trí nhà mình bằng những loại hoa khác nhau, trong đó nhiều nhất là hoa mai. Ở Trung Quốc hoa mai còn là “quốc hoa”, tượng trưng cho tinh thần của dân tộc Trung Hoa.

古时候有人把梅兰竹菊称为“花中四君子”。那是因为梅花的高尚品格,兰花的高贵清丽,竹子的坚强不屈,菊花的傲霜争妍。

Thời xưa có người gọi mai, lan, trúc, cúc là “hoa trung tứ quân tử” (bốn bậc quân tử trong các loài hoa). Đó la vì phẩm cách cao thượng của hoa mai, sự cao quý đẹp đẽ của hoa lan, nét kiên cường bất khuất của trúc và sự khoe sắc bất chấp sương gió của cúc.

相关故事
  

相传隋代赵师雄游浮罗山时,夜里梦见与一位装束朴素的女子一起饮酒,这位女子芳香袭人,又有一位绿衣童子,在一旁欢歌笑舞。天将发亮时,赵师雄醒来,却发现自己睡在一棵大梅花树下,树上有翠鸟在欢唱。运来梦中的女子就是梅花树,绿衣童子就是翠鸟,这时,月亮已经落下,天上的星星也已横斜,赵师雄独自一人惆怅不已,后用为梅花的典故。

Chuyện về hoa mai
  

Tương truyền Triệu Sư Hùng đời Tùy khi đi chơi ở núi Phù La, đêm nằm mơ thấy được uống rượu chung với một cô gái ăn mặc giản dị, cô gái này có hương thơm rất mê người, còn có một đứa hầu mặc áo màu xanh, ca hát nhảy múa bên cạnh. Khi trời gần sáng, Triệu Sư Hùng thức dậy, thì phát hiện mình đang nằm ngủ dưới một cây mai lớn, trên cây chim thúy đang ca hát. Cô gái đến trong giấc mộng chính là cây hoa mai, đứa hầu mặc áo màu xanh chính là chim thúy, lúc này mặt trăng đã lặn xuống, những vì sao trên bầu trời cũng đã lặn dần, Triệu Sư Hùng một mình buồn rầu khôn tả, ve sau dùng làm điển cố của hoa mai.

美丽的梅花从不与其它的花卉在温暖的春天和炎热的夏季比俏,而是开放在飘着白雪的冬末和料峭初春之间。每到冬天,孕育、积攒了一年力量的梅树伸展开它结实的腰身,粗壮的褐色的梅树枝上结满了花蕊,小小的,密密的,一粒一粒的真可爱!一棵梅树上能结几千朵花呢!梅花有八片小小的花瓣,花的颜色有红色的也有白色的。红的花蕊像玛瑙,白的花蕊像珍珠,等到梅花开放配上嫩黄色的花蕊特别漂亮。

Hoa mai xinh đẹp không khoe sac cùng những loài hoa khác vào ngày xuân ấm áp và ngày hè oi bức, mà chúng lại nở vào khoảng cuối đông có tuyết rơi và đầu xuân se lạnh. Mỗi khi tới mùa đông, cây mai sau khi đã thai nghén, tích sức sống của một năm bắt đầu vươn mình, trên những cành mai màu hạt dẻ to khoẻ kết đầy những nhụy hoa bé nhỏ, dày đặc, từng nụ từng nụ thật đáng yêu! Một cây mai có thể kết mấy ngàn đóa hoa! Hoa mai có tám cánh be bé, sắc hoa thì có màu đỏ và màu trắng. Nhụy hoa màu đỏ giống như mã não, nhụy hoa màu trắng giống như trân châu, đợi đến khi hoa mai nở kết hợp thêm nhụy hoa vàng tơ thì rất đẹp.

古代和现代有很多诗人都爱梅,都写诗、词赞颂梅花。比如毛泽东在1961年12月写的《咏梅》“风雨送春归,飞雪迎春到。已是悬崖百丈冰,犹有花枝俏。俏也不争春,只把春来报。待到山花烂漫时,她在丛中笑。”这首词里面的梅花俏不争春、乐观谦虚,赞颂了梅花不畏艰难险阻、凌寒独放的品格和不居功自傲的精神。

Thời cổ đại cũng như hiện đại có rất nhiều nhà thơ yêu hoa mai, họ đều làm thơ, từ ca ngợi hoa mai. Ví như bài “Vịnh mai” của Mao Trạch Đông viết tháng 12 năm 1961: “Phong vũ tống xuân quy, phi tuyết nghênh xuân đáo. Dĩ thị huyền ngạn bách trượng băng, do hữu hoa chi tiếu. Tiếu dã bất tranh xuân, chỉ bả xuân lai báo. Đãi đáo sơn hoa lạn mạn thời, tha tại tùng trung tiếu.” ( Mưa gió đưa xuân quay trở lại, tuyết rơi đón xuân đến. Băng đã phủ đầy trên vách đá cheo leo, vẫn còn cành mai xinh đẹp. Cành mai xinh đẹp không tranh với mùa xuân, chỉ báo mùa xuân đến. Đợi đến khi hoa trên núi nở rộ, mai mới nơ nụ cười trong những khóm hoa). Hoa mai trong bài từ này xinh đẹp mà không tranh với xuân, lạc quan khiêm tốn, ngợi ca phẩm cách không sợ khó nhọc hiểm trở, vươn mình trong giá lạnh và tinh thần không cậy công kiêu ngạo cua hoa mai.

又如陆游写的(也是)《咏梅》中:“驿外断桥边,寂寞无开主。已是黄昏独自愁,更着风和雨。无意苦争春,一任群芳妒。零落成泥碾作尘,只有香如故。”在这首词里面陆游把自己比作梅花,不想去争妍斗艳,任凭百花的嫉妒与排斥,即使粉身碎骨,也不改变坚定的信念和坚贞不屈的品格。还有:宋代诗人王安石所作的梅花“墙角数枝梅,凌寒独自开。遥知不是雪,为有暗香来。”……他们是想借着梅花顽强向上,不畏严寒的精神来激励人们。那柔弱的花瓣不仅仅展现了它们的美丽,更是在寒风中向世人展现着它们精神的高贵,展现着它们的铮铮风骨。

Hay như trong bài (cũng là) “Vịnh mai” của Lục Du: “Dịch ngoại đoạn kiều biên, tịch mịch khai vô chủ. Dĩ thị hoàng hôn độc tự sầu, cánh trước phong hoà vũ. Vô ý khổ tranh xuân, nhất nhậm quần phương đố. Linh lạc thành nê niễn tác trần, chỉ hữu hương như cố.” (Bên cầu ngoài trạm dịch, âm thầm lặng lẽ nở hoa. Ánh chiều buông xuống, một mình u sầu, lại gặp thêm gió mưa. Không có ý đua tranh với mùa xuân, mặc cho muôn hoa đố kỵ. Rơi rụng thành bùn, nghiền nát ra thành bụi, duy hương thơm vẫn còn). Trong bài từ này, Lục Du ví mình với hoa mai, không muốn tranh sắc, mặc cho sự ganh ghét và chối bỏ của muôn hoa, dù cho có tan xương nát thịt, cũng không thay đổi lòng tin kien định và phẩm chất kiên trinh bất khuất. Còn có bài thơ tả hoa mai của nhà thơ đời Tống – Vương An Thạch: “Tường giác sổ chi mai, lăng hàn độc tự khai. Dao tri bất thị tuyết, vị hữu ám hương lai” (Góc tường có mấy cành mai, một mình nở hoa trong giá lạnh. Nhìn xa vẫn biết không phải là tuyết, vì có hương thầm thoang thoảng bay đến). Họ muốn mượn tinh thần vươn lên mạnh mẽ, không sợ giá lạnh của hoa mai để khích lệ mọi người. Những cánh hoa mềm mại không chỉ thể hiện sự xinh đẹp của chúng, mà càng cho người đời thấy được sự cao quý về tinh thần của chúng, phong cách kiêu sa của chúng trong giá lạnh.

Lên đầu trang