Chuyến tàu của ông già Noel

圣诞老人专列 — CHUYẾN TÀU CỦA ÔNG GIÀ NOEL

我生活在弗吉尼亚西南偏僻的深山沟里。那儿的土地坚硬贫瘠,谁也别指望在这里能靠种庄稼过上好日子。如果你们看了我们居住的地方,可能奇怪为什么我们不干脆抬脚离开那儿呢?

Tôi sống ở vùng núi xa xôi hẻo lánh phía tây nam Virginia, đất đai nơi đây cằn cỗi bạc màu, chẳng ai hy vọng có thể dựa vào việc trồng trọt để sinh sống ở chốn này. Nếu các bạn thấy nơi chúng tôi đang ở chắc sẽ thấy lạ là tại sao chúng tôi không dứt khoát cất bước mà rời khỏi vùng đất này?

父亲带我们搬到那儿有两个原因——一是离亲戚们近一些,二是可以在煤矿上干活。父亲的家人多年来都在煤矿工作,因此当他到了可以下矿的年龄,父亲抓起铁铲便开始干活。当然,在那时候,许多活都是用手来干的。父亲常常一回家就累得倒在床上立刻睡着了。虽然我们并不富裕,可是父亲供给了我们生活所需的一切。

Cha đưa chúng tôi chuyển đến đó là vì hai nguyên do: một là sẽ sống gần bà con hơn, hai là có thể làm việc ở mỏ than. Người nhà của cha nhiều năm nay đều làm việc ở mỏ than, thế nên khi ông đến cái tuổi được xuống mỏ liền cầm lấy xẻng và bắt đầu làm việc. Tất nhiên là vào thời đó, rất nhiều công việc đều làm bằng tay. Cha thường xuyên vừa về đến nhà là mệt nhoài đến nỗi nằm vật xuống giường và ngủ tức thì. Tuy nhà chúng tôi không dư dả gì, nhưng cha đã chu cấp đầy đủ cho chúng tôi tất cả những nhu cầu thường ngày của cuộc sống.

有一天,父亲得到通知要他到某个我从来没有听说过的地方去为我们的国家打仗。父亲离家后,我的哥哥姐姐们会大声朗读父亲从这些听起来非常古怪的地方寄来的信。但是不知从哪一天起,不再有信来了。妈妈担心得病倒了,直到有一天,几个军人出现在我们家门口。他们说,父亲在战场上战死了,但聊以告慰的是,他死得很勇敢。

Một hôm, cha nhận được thông báo phải đến một nơi mà chúng tôi chưa từng nghe thấy bao giờ để chiến đấu cho Tổ quốc. Sau khi cha rời nhà, các anh chị của tôi hay đọc lớn những bức thư mà cha gửi về từ những nơi nghe vô cùng lạ lẫm. Nhưng không biết từ hôm nào đã không có thư gửi về nữa. Mẹ lo lắng đến đổ bệnh, mãi cho tới một hôm, có mấy người lính xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi. Họ nói cha đã hi sinh trên chiến trường, nhưng nói để an ủi là cha đã hi sinh rất dũng cảm.

从此母亲要一人支撑起抚养我们兄弟姐妹的重担。她只能勉强支付我们的账单,但是我们实在也没有其他地方好去。我们都挤在一个房间里睡,每天都在半饥半饱中度过。冬天到来时,凛冽的寒风从墙洞里钻进来。为了保暖,我们互相挤挨着蜷缩在一起。但是我们也有许多快乐的日子——比我所知道的一些家庭还要快乐。我想,如果你不知道你的生活中少了些什么,那么你所拥有的也就足以让你满足了。

Từ đó mẹ phải một thân lo gánh trách nhiệm nuôi dưỡng các anh chị em chúng tôi. Mẹ chỉ có thể gắng gượng chi trả những chi phí hàng ngày của chúng tôi nhưng quả thật chúng tôi cũng không có nơi nào tốt hơn để đi. Chúng tôi toàn chen chúc nhau ngủ trong một gian phòng, bữa đói bữa no sống qua ngày. Đông về, gió rét lạnh buốt lùa vào từ những lỗ hổng trên tường. Để giữ ấm, chúng tôi co ro dựa sát vào nhau. Nhưng chúng tôi cũng có rất nhiều ngày vui vẻ, thậm chí còn vui hơn cả một số gia đình mà tôi biết. Tôi nghĩ rằng, nếu bạn không biết cuộc sống của bạn thiếu những thứ gì thì những thứ bạn đang có cũng đủ làm bạn thấy thỏa mãn rồi.

我记得圣诞节对我们来说是一个非常特别的日子。所有的家庭都参与布置当地的教堂,准备那些盛大的宴会。我们唱歌,我们欢笑,我们打雪仗的规模之大是你们从来没有看见过的。到了星期天,我们全家人会专门到父亲的墓地去,用圣诞鲜花和丝带装饰父亲的墓。我们想他应该也与我们一起在庆祝节日,因为妈妈总是说,父亲就在我们周围,虽然我们看不见他。

Tôi còn nhớ Lễ Noel là một ngày vô cùng đặc biệt đối với chúng tôi. Mọi nhà đều tham gia trang hoàng nhà thờ của vùng, chuẩn bị những bữa tiệc thịnh soạn. Chúng tôi ca hát, vui cười, chúng tôi chơi trò đánh trận tuyết với quy mô lớn mà các bạn chưa từng thấy bao giờ. Đến chủ nhật, cả nhà chúng tôi chỉ đi thăm mộ cha, trang trí lên mộ những dây ruy băng và hoa Noel tươi thắm. Chúng tôi nghĩ có lẽ cha cũng cùng đón mừng ngày lễ với chúng tôi vì mẹ thường nói, cha luôn ở bên cạnh chúng tôi, tuy rằng chúng tôi không hề nhìn thấy ông.

正如你可以想像得到的,在我们附近那一带不时兴送礼物什么的。事实上,我真的不知道人们在圣诞节送礼物这回事。直到有一天我到镇上在店铺的窗户里看到了一件新奇的东西:一幅画,上面是一个穿着红衣的快乐老人,正从烟囱里往下跳,带着一个看起来里面似乎装满了礼物的袋子。

Giống như bạn có thể tưởng tượng được, ở vùng gần đó không thịnh hành việc tặng quà.Trên thực tế, tôi thật sự không biết việc mọi người tặng quà vào dịp Noel. Mãi đến một ngày khi tôi lên thị trấn và nhìn thấy một món đồ mới lạ trong cửa sổ của một cửa hàng: một bức tranh, trong tranh là một ông lão tươi cười mặc một chiếc áo đỏ, đang chui ra từ ống khói, vác một cái túi vẻ như bên trong đựng đầy quà.

“那是谁?”我手指着那张画问妈妈。

“Đó là ai vậy?” Tôi chỉ tay về phía bức tranh hỏi mẹ.

“没什么,亲爱的,”她说,拉着我走开,“那只是一张画”。

“Không có gì đâu con yêu!” mẹ nói và kéo tôi đi “đó chỉ là một bức tranh thôi”.

开始的时候我相信了她说的话,但是后来我在学校里听到了不同的说法。而当我们到镇上去的时候,我会偷偷地看一些关于圣诞节的杂志和书本。从这些地方我得知,对于某个被认为并非真实存在的人物,有许许多多的人似乎很相信他的存在。他快乐地生活在北极,有一群小精灵帮他做玩具。圣诞节到来的时候,他就乘上雪橇,将那些玩具分发给一整年都听话的孩子。我们并不只是在这儿说说而已——圣诞老人甚至还将礼物送到遥远的中国,所有的分发都是在一个晚上完成的!

Lúc đầu tôi tin lời mẹ nói, nhưng sau đó tôi lại nghe thấy những cách nói khác ở trường. Và khi chúng tôi lên thị trấn, tôi hay xem trộm một số sách và tạp chí nói về Lễ Noel. Từ những nơi đó mà tôi biết rằng, đối với một nhân vật nào đó bị xem là thực tế không hề tồn tại thì lại có rất nhiều người dường như khá tin vào sự tồn tại của ông ta. Ông đang sống vui vẻ ở Bắc cực, có một đám tiểu yêu giúp ông làm đồ chơi. Khi Lễ Noel đến, ông liền ngồi lên xe trượt tuyết, đi phân phát số đồ chơi đó cho những đứa trẻ suốt năm ngoan ngoãn. Chúng tôi hoàn toàn không chỉ nói suông ở đây đâu – ông già Noel thậm chí còn đưa quà đến Trung Quốc xa xôi, tất cả quà đều được phát hết trong một buổi tối!

那年的圣诞节前夜,我将这些都告诉了我的母亲。我说,除了有一次我放了一个鞭炮吓唬罗宾森先生的骡子,还有一次向吉米.哈兰扔泥块之外,我一直是一个很乖很听话的孩子。那为什么圣诞老人不来看我呢?

Đêm trước Noel năm ấy, tôi kể những điều này cho mẹ. Tôi nói, ngoài một lần tôi ném pháo dọa con lừa của ông Robinson với một lần ném bùn vào Jimmy ra, lúc nào tôi cũng là đứa trẻ ngoan ngoãn. Vậy tại sao ông già Noel vẫn không đến thăm tôi nhỉ?

我的哥哥姐姐们面面相觑,神情黯然。我记得母亲眼中突然充满了泪水,她连忙转过头去。我那时已经不小了,知道自己问了不该问的问题。

Các anh chị tôi ngơ ngác nhìn nhau với vẻ mặt rầu rĩ. Tôi còn nhớ mắt mẹ chợt nhòa lệ, mẹ vội quay mặt đi. Lúc đó tôi đã không còn nhỏ, tôi biết mình đã hỏi một câu không nên hỏi.

你们一定也有这样的体验,你突然发现了某件事的真相,于是你周围的一切似乎都变了样,是不是?是的,那天晚上发生的事情对我来说就是这样。我环顾四周,充满霉昧的阴冷的小屋里只有一些破烂的家具和空空荡荡的橱柜。我注意到我们身上穿了许多年的破旧衬杉,长年在山溪的硬水中洗涤,早已脱尽了原先的色彩。我注意到我们笼罩在黑暗里,只有屋里四处摆放的蜡烛的光才稍稍打破这巨大的黑幕。

Các bạn nhất định cũng từng trải nghiệm thế này, bạn đột nhiên phát hiện ra chân tướng một sự việc nào đó, thế là thế giới quanh bạn dường như thay đổi hoàn toàn, có đúng vậy không? Đúng vậy, chuyện xảy ra đêm hôm đó đối với tôi chính là như thế. Tôi nhìn xung quanh, căn phòng nhỏ lạnh lẽo đầy mùi ẩm mốc chỉ có vài đồ dùng cũ nát với cái tủ bếp trống không. Tôi chú ý đến những chiếc áo sơ mi cũ rách mặc đã nhiều năm trên người chúng tôi, quanh năm được giặt với thứ nước cứng (loại nước chứa nhiều muối vô cơ) ở khe núi, đã phai màu từ lâu. Tôi nhận thấy chúng tôi bị bao phủ trong bóng tối, chỉ có ánh sáng của những ngọn nến được đặt ở bốn góc phòng mới leo lắt phá vỡ được màn tối dày đặc đó.

于是我便知道了真相——圣诞老人是真的,但是他不来看我们。只有在那些神奇的城市里的那些有着真正像样的家的孩子们,才会发现圣诞老人在圣诞节清晨从他们的烟囱里滑下来。圣诞老人忘了我们,看起来以后也别指望他会来了。

Thế là tôi chợt hiểu ra một sự thật – ông già Noel có thật, nhưng ông ấy không đến thăm chúng tôi. Chỉ có những đứa trẻ con nhà tử tế trong những thành phố thần kì đó, mới thấy được ông già Noel trượt xuống từ ống khói nhà chúng vào sáng ngày Noel mà thôi. Ông già Noel đã quên mất chúng tôi, xem ra sau này cũng đừng mong ông sẽ đến.

提起我当时的情绪,可说是沮丧透了。我对我们过去年代在欢乐节日里所做的一切事情都打不起精神了。不管怎么说,如果圣诞节只是富人的节日,我们又何必操心去庆祝它呢?

Nhắc đến tâm trạng tôi lúc đó có thể nói là hết sức buồn bã hụt hẫng. Tôi không còn chút hứng thú nào với tất cả những việc mà chúng tôi đã làm trong ngày lễ vui vẻ của những năm trước. Có nói thế nào chăng nữa, nếu Lễ Noel chỉ là ngày lễ của người giàu thì cớ gì chúng tôi phải nhọc lòng đi chúc mừng nó chứ?

就这样,又一年过去了,我开始怕过圣诞节。我最不想看到的就是镇上那些挂在电线杆上的红绸带,放在教堂门口的花环——当然还有挂在店铺里的那个吝啬老人的画像。当别人都到镇上去的时候,我总是留在家里,坐在门廊里。那时我6岁,但我已经有了离开这个地方的想法。

Cứ như vậy, lại một năm nữa trôi qua, tôi bắt đầu thấy sợ Lễ Noel. Thứ tôi không muốn nhìn thấy nhất chính là những dải ruy băng đỏ được giăng trên các cột điện trong thị trấn, những vòng hoa đặt trước cửa nhà thờ – đương nhiên còn có chân dung ông già keo kiệt đó treo trong các cửa hàng. Khi những người khác đều lên thị trấn thì tôi ở lì trong nhà, ngồi ở hành lang. Lúc đó tôi 6 tuổi, nhưng đã có ý nghĩ rời khỏi nơi này.

有一天,我记得我一个人坐在门廊里向着栅栏柱投着石头,其他人都到镇上去了,雪谷中笼罩着一片清冷的寂寞。远处突然传来响彻云霄的火车汽笛声,那是3点到达的火车,接着响起了火车头“吭哧——吭哧”的声音。每天都是这个时间到达,就像钟表一样准,听见火车的声音我就知道我的家人很快就要回到家了。

Một hôm, tôi còn nhớ tôi ngồi một mình ở hành lang, ném đá vào cọc hàng rào, những người khác đều đã lên thị trấn, trong thung lũng tuyết đang bao trùm một sự cô đơn lạnh lẽo. Đột nhiên từ xa vọng lại tiếng còi xe lửa vang tận mây xanh, đó là đoàn tàu đến lúc 3 giờ, tiếp đó là âm thanh “xình xịch – xình xịch” của đầu xe lửa vang lên. Ngày nào cũng đến vào giờ này, chính xác như đồng hồ báo thức. Nghe thấy tiếng xe lửa, tôi biết là người nhà tôi đã sắp về nhà rồi.

就在这个时候,我听见路上响起了一阵狂乱的脚步声,正向着我们家的方向跑过来。我转过头去一看,浑身的血液都凉了——是吉米.哈兰,他正向我这儿跑来,气都喘不上来了,脸上红扑扑的,眼神中充满了狂热。吉米跑上门廊,从窗户往里瞧,他的眼神里有什么东西让我觉得好奇起来。于是,我问道:“你到底想干什么?”

Đúng vào lúc này, tôi nghe thấy tiếng những bước chân hỗn loạn vang lên trên đường, đang chạy về phía nhà chúng tôi. Tôi vừa quay đầu lại nhìn, máu khắp người lạnh toát – là Jimmy, cậu ấy đang chạy về phía tôi, thở hổn ha hổn hển, mặt đỏ bừng, ánh mắt đầy sự cuồng nhiệt. Jimmy chạy vào hành lang, nhìn qua cửa sổ, ánh mắt cậu ta có điều gì đó khiến tôi thấy tò mò. Thế là tôi hỏi: “Rốt cuộc cậu muốn làm gì?”

“他到这儿来了!”吉米隔着玻璃窗叫道,“你一定要去看看。赶快,要不他就走了!”

“Ông ấy đến đây rồi!” Jimmy reo lên qua cửa sổ bằng kính, “cậu nhất định phải tới xem đi. Mau lên, nếu không ông ấy sẽ đi mất!”

“谁来这儿了?”

“Ai đến đây chứ?”

“圣诞老人!”吉米喘着气说,“他在火车上!”

“Ông già Noel!” Jimmy thở hổn hển nói , “ông ấy ở trên xe lửa!”

他转身飞快地向山下跑去,直向着火车开来的方向而去。当他跑得够远的时候,我轻轻打开门,跟在他后面慢慢地下山——我的好奇心终于占了上风。

Cậu ta quay người chạy như bay xuống núi, hướng thẳng về phía chiếc xe lửa đang chạy đến. Khi cậu ta đã chạy đủ xa, tôi nhè nhẹ mở cửa, chậm rãi theo sau cậu ta xuống núi – sự tò mò của tôi cuối cùng cũng chiếm ưu thế.

当我快跑到铁轨处的时候,已经可以听到人群的欢呼声。我越跑越快,穿越了树林,我越跑越近,火车轮子的隆隆声也越来越响。我终于跑出了林子,发现自己已经来到了铁道旁。接下来看到的差点儿没让我惊掉下巴。

Khi tôi chạy sắp đến chỗ đường ray, đã có thể nghe thấy tiếng hoan hô của đám đông. Tôi càng chạy nhanh hơn, băng xuyên qua rừng cây, càng chạy càng gần, tiếng bánh xe lửa ì ạch cũng càng lúc càng vang to. Cuối cùng tôi cũng chạy ra khỏi rừng, thấy mình đã ở cạnh đường tàu. Cảnh tượng tôi nhìn thấy sau đó suýt làm tôi choáng.

铁轨两旁围着许多人,人们都在向着火车挥手致意,欢呼雀跃,火车在两旁人群的簇拥下非常缓慢地移动着。我很奇怪,如此大场面是为的什么呢?火车几乎每天都来,毫不张扬,直到我看到了火车的最后一节车厢才明白是怎么回事。那里面端坐着的正是圣诞老人——雪白的胡须飘动着,挺着个大肚皮,穿着一身红衣服,与画上的圣诞老人一模一样——周围堆着大包大包装满礼物的麻布包。

Rất đông người vây lấy hai bên đường ray, mọi người đều đang hướng về phía đoàn tàu và vẫy tay chào, hò reo nhảy nhót, đoàn tàu chậm chạp chuyển động trong sự vây quanh của mọi người hai bên. Tôi thấy rất kì lạ, vì sao lại có khung cảnh này chứ? Xe lửa hầu như ngày nào cũng đến, nhưng chẳng có ai quan tâm, mãi tới khi nhìn thấy toa tàu cuối cùng tôi mới hiểu ra là chuyện gì. Người đang ngồi nghiêm nghị trong đó chính là ông già Noel với chòm râu trắng như tuyết đang phất phơ, cái bụng bự đang ưỡn ra. Ông mặc một bộ đồ màu đỏ, giống hệt như ông già Noel trong tranh xung quanh chất mấy đống bao đay lớn đựng đầy quà.

“嗬!嗬!嗬!”他纵情大笑着,手伸向那些布袋,向着欣喜若狂的男孩和女孩们抛撒着玩具、冬衣和糖果。“圣诞节快乐!圣诞老人来看你们啦。”他的那一队小精灵们环绕着他,但他们并不像我在书上看到过的那样的小人儿。事实上,他们看上去差不多与普通人一样——当然,他们也没有尖尖的耳朵。

“Khà! Khà! Khà!” ông cười một cách sảng khoái, thò tay vào những túi vải đó, phát đồ chơi, áo ấm và kẹo cho những bé trai và bé gái đang ngập tràn vui sướng, “Giáng sinh vui vẻ! Ông già Noel đến thăm các cháu đây.” Đám tiểu yêu vây quanh ông, nhưng chúng không giống như những người tí hon mà tôi từng nhìn thấy trong sách. Thực tế thì trông chúng không khác gì người bình thường – Tất nhiên, chúng cũng không có những cái tai nhọn nhọn.

当圣诞老人从我旁边缓缓经过的时候,他向我眨了一下眼睛,并对准我扔下一个包装好的盒子,还有几把硬糖。他最后向我挥了一下手,发出亲切由衷的笑声,然后消失在拐弯处。

Khi ông già Noel thong thả lướt qua cạnh tôi, ông nháy mắt với tôi và quăng cho tôi một chiếc hộp được gói cẩn thận, còn có mấy viên kẹo cứng. Sau cùng ông vẫy tay với tôi, nở một nụ cười thân thiện, sau đó biến mất ở chỗ rẽ.

我记得,当圣诞老人的火车汽笛声渐渐淡去,隐入我的记忆中时,我还站在铁轨旁,无法从震惊中恢复过来。直到今天,我虽然已经不记得圣诞老人给我的是什么礼物,但是那并不重要。一年又一年,圣诞老人总会再次登上“圣诞老人专列”回到我们这里来,后来这部列车成了众所周知的了。每当火车开近的时候,消息就会像燎原之火一样迅速地传播开来,空中照例响彻着人们的欢呼声:“圣诞老人来了!圣诞老人来了!”

Tôi còn nhớ, khi tiếng còi tàu của ông già Noel dần loãng đi và âm thầm đi vào kí ức của tôi, tôi vẫn đứng bên đường ray, không sao hết kinh ngạc. Mãi cho tới hôm nay, tuy tôi đã không còn nhớ ông già Noel đã tặng tôi món quà gì, nhưng điều đó vốn chẳng quan trọng. Năm này qua năm khác, ông già Noel nhất định sẽ lại bước lên “chuyến tàu của ông già Noel” trở lại chỗ chúng tôi, sau này chuyến tàu đó ai ai cũng biết. Mỗi lần chuyến tàu hỏa sắp đến, thông tin sẽ lan truyền nhanh chóng như mồi lửa, không gian vang dội tiếng hoan hô của mọi người: “Ông già Noel đến rồi! Ông già Noel đến rồi!”

随着年岁渐长,我开始明白,圣诞老人并不像所有那些书上说的那样,只生活在北极。他生活在英国伦敦、非洲丛林,对了,还有弗吉尼亚西南地区——不管是哪里,只要是有人的地方,每年这个时候,人们都会玩一点儿小小的花样来欢庆这个节日。

Năm tháng trôi qua, tôi bắt đầu hiểu rằng, ông già Noel không hề giống như trong tất cả các sách đã nói là chỉ sống ở Bắc cực. Ông sống ở thành phố Luân Đôn nước Anh, rừng rậm châu Phi, đúng rồi, còn ở vùng Tây Nam Virginia – dù là bất cứ chỗ nào, chỉ cần nơi nào có người, mỗi năm vào dịp này, mọi người đều sẽ bày một số trò vui để chúc mừng ngày Lễ Giáng sinh.

你会问,我是怎么知道的呢?因为差不多50年以后,我自己也成为了圣诞老人。当我的样子老得足可以扮演这个角色的时候(满头白发加上大腹便便的样子装起来很像),我套上了圣诞老人的服装,登上“圣诞老人专列”,回到我在山区的老家。虽然那里已经不像过去那样荒凉了,但孩子们脸上的表情与很多年以前的我是一样的。

Bạn sẽ hỏi là tại sao tôi biết chứ? Bởi vì khoảng hơn năm mươi năm sau, tôi cũng sẽ trở thành ông già Noel. Khi hình dáng của tôi đủ già để có thể đóng vai này (đầu tóc bạc phơ, thêm vào cái bụng to kềnh, hóa trang sẽ rất giống), tôi khoác lên mình trang phục của ông già Noel, bước lên “chuyến tàu của ông già Noel”, về quê hương miền núi của tôi. Tuy nơi đó đã không còn hoang vắng như trước nữa, nhưng vẻ mặt những đứa trẻ thì vẫn giống như tôi rất nhiều năm về trước.

所以,圣诞老人毕竟是有的,你不必跑很远的地方就能看到他。

Vì vậy, ông già Noel rốt cục vẫn tồn tại, bạn không cần chạy đến một nơi thật xa cũng có thể nhìn thấy ông ấy.

Lên đầu trang