英语中的喜鹊(magpie)一词是由mag+pie构成。mag是Margaret的诨名,pie是馅饼。馅饼中常包有肉和水果等各种食品,而这种鹊鸟以喜欢把各种漂亮的东西藏在自己的巢中而得名。另外,这种鸟的叫声十分聒噪,因此它常被喻为饶舌者和小偷(a chatterbox and a thief)。
Từ Hỉ Thước (magpie) trong tiếng Anh được cấu thành bởi hai từ mag + pie. Mag là biệt hiệu của Margaret, pie là nhân bánh. Trong nhân bánh thường bao gồm các loại thực phẩm như thịt và trái cây…, mà loài chim hỉ thước này có tên như vậy là do chúng thích mang những đồ vật xinh đẹp giấu vào trong tổ của mình. Ngoài ra, tiếng kêu của loài chim này rất ầm ĩ, do vậy mà chúng thường được ví như kẻ lắm lời và tên trộm.
据说人们常把喜鹊奉献给酒神巴克科斯(Bachus,the god of wine),以便让舌头在酒力的作用下无所约束而泄露秘密。
Nghe nói người ta thường dâng chim hỉ thước cho thần rượu Bachus, để dưới tác dụng của rượu, lưỡi sẽ tha hồ tiết lộ bí mật.
根据希腊传说(the Greek legend),在色雷斯那个地方,有九个少女庇厄里得斯(the Pierides,nine Thracian maidens),要跟九位司文艺、美术的女神缪斯(the Muses)一争高低,唱歌比赛失败后,九个少女被罚变成了九只喜鹊。根据这个传说,可以看出喜鹊也象征嫉妒、自负、饶舌和赶时髦(envy,presumption,idle gossip and snobbery)。因此,在西方文化里,喜鹊的形象通常是阴郁的,它的出现往往是预示着灾祸的来临,因而被看成是一种凶鸟(a bird of ill omens)。
Theo truyền thuyết Hy Lạp, ở vùng Thracian nọ, có chín thiếu nữ Pierides, muốn tranh cao thấp với chín nữ thần Muses cai quản mỹ thuật và văn nghệ, sau khi thất bại ở cuộc thi hát, chín cô gái bị phạt hóa thành 9 con chim hỉ thước. Theo truyền thuyết này, có thể thấy chim hỉ thước cũng tượng trưng cho sự đố kỵ, tự phụ, lắm lời và đua đòi. Vì thế mà trong văn hóa phương Tây, hình tượng của chim hỉ thước thường có vẻ gì đó âm u ảm đảm, sự xuất hiện của chúng luôn là điềm báo sắp có tai họa xảy ra, do vậy mà chúng bị xem là một loài chim báo hiệu điềm xấu.
在汉文化里,喜鹊被视为喜庆的象征。五代时的王仁裕《开元天宝遗事·灵鹊报喜》曰:“时人之家,闻鹊声,皆为喜兆,故谓灵鹊报喜。”北京有一首儿歌唱道:“喜鹊喳喳进了宅,早报喜,晚报财,晌午报,有人来。”为此,喜鹊被看做吉祥鸟。人们出门做事,如果听到喜鹊叫,这就预兆着能心想事成;喜鹊落在门前,预示喜事或贵客来临,常称“灵鹊报喜”或“鹊喜”。民间传说有喜鹊搭桥的故事:牛郎织女被天河所隔而不能相见,喜鹊便在每年的七月初七晚上,飞到银河上空,搭成鹊桥,让这对情人相会一次。因此喜鹊也就成了促成美满姻缘和预兆喜讯的象征。
Trong văn hóa Hán, chim hỉ thước được xem là biểu tượng của niềm vui.Tác phẩm “Khai Nguyên Thiên Bảo di sự – Linh thước báo hỉ” của Vương Nhân Dụ thời Ngũ Đại viết: “Thời nhân chi gia, văn thước thanh, giai vi hỉ triệu, cố vị linh thước báo hỉ” (lúc bình thường, mọi người nghe tiếng chim thước, đều cho là điềm lành, cho nên gọi là chim thước báo hiệu điềm lành). Ở Bắc Kinh có một ca khúc thiếu nhi hát rằng: “Chim hỉ thước ríu rít bay vào nhà, sáng báo điềm lành, tối báo tài lộc, trưa báo có khách ghé thăm”. Vì vậy, chim hỉ thước được xem là loài chim may mắn. Người ta ra ngoài làm việc, nếu nghe được tiếng chim hỉ thước kêu, chính là dự báo mọi chuyện sẽ được như ý muốn. Chim hỉ thước đậu trước cửa nhà, dự báo sắp có việc vui hoặc có khách quý đến, thường gọi là “linh thước báo hỉ” hoặc “thước hỉ”. Trong dân gian có câu chuyện chim hỉ thước bắc cầu: Ngưu Lang và Chức Nữ bị ngăn cách bởi sông Ngân Hà, không thể gặp nhau, vào đêm mồng 7 tháng 7 hàng năm, chim hỉ thước bèn bay đến dòng Ngân Hà bắc thành cây cầu Ô Thước, cho đôi tình nhân này được gặp nhau một lần. Do đó hỉ thước cũng đã trở thành biểu tượng của việc tác thành nhân duyên tốt đẹp, trọn vẹn và dự báo tin vui.
此外人们还常把喜鹊同其他吉祥物组合在一起,联成吉祥语或吉祥图案,广泛应用于画稿、绣品、文具、家具等。如:梧桐树上落着一只喜鹊,曰“同喜”;一只豹子和一只喜鹊在一起,曰“报喜”;一枝盛开的梅花和一只喜鹊,寓意为“喜上眉梢”;一副画有十二只喜鹊的图画用来表示十二个美好的愿望;两只喜鹊的纹图则表示“双喜”;画一只喜鹊和三枚圆果或大橘,题名“喜报三元”。封建社会的科举考试制度里,乡试中考第一名的为“解元”;举人到京会试中第一名的为“会元”;最后到金殿面试取第一名者为“状元”,三次考试皆中元首,是人生仕途的优胜者,所以很多读书人都盼望能中三元,得到这一喜报。
Ngoài ra, người ta cũng thường kết hợp chim hỉ thước với các vật may mắn khác để nối thành những câu nói may mắn hoặc những bức tranh may mắn, được ứng dụng rộng rãi trong các tranh phác họa, sản phẩm thêu, đồ dùng văn phòng, đồ dùng gia đình… như: Một con chim hỉ thước đậu trên cây ngô đồng gọi là “đồng hỉ”(cùng vui); một con báo ở bên cạnh một con chim hỉ thước gọi là “báo hỉ”(báo tin vui); một nhành mai nở rộ và một con chim hỉ thước ngụ ý là “hỷ thượng my tiêu”(vui mừng rạng rỡ); một bức tranh vẽ hình 12 con chim hỉ thước dùng để bày tỏ 12 mong ước tốt đẹp; hoa văn hình hai con chim hỉ thước biểu thị “song hỉ”; vẽ một con chim hỉ thước với 3 trái tắc hoặc quýt, đặt tên là “hỉ báo tam nguyên”. Trong chế độ thi cử của xã hội phong kiến, đỗ đầu trong cuộc thi hương gọi là “giải nguyên”; cử nhân đến kinh thành đỗ đầu trong cuộc thi hội gọi là “hội nguyên”; sau cùng đến hoàng cung thi vấn đáp đỗ đầu gọi là “trạng nguyên”, cả ba lần thi đều đỗ đầu, là người xuất sắc trên đường công danh, cho nên rất nhiều học trò đều mong đỗ tam nguyên, có được tin báo hỉ này.
