1. 疾—病
Tật – Bệnh
古称小病为疾。《扁鹊见蔡桓公》:“扁鹊曰:‘君有疾在膝理,不治将恐深。’桓侯曰:‘寡人无疾。’”疾亦泛指疾病。
Xưa gọi bệnh nhẹ là tật. Trong “Biển Thước gặp Thái Hoàn Công”: “Biển Thước nói: ‘Bệ hạ có tật ở đầu gối, không trị sợ sẽ nặng.’ Hoàn Hầu nói: ‘Quả nhân không có tật’. Tật cũng phiếm chỉ là bệnh tật.
古代一般称重病为病。《说文》:“病,疾加也。从疒,丙声。”《扁鹊见蔡桓公》:“居十日,扁鹊复见,曰:‘君之病在肠胃,不治将益深。’”
Thời xưa thường gọi bệnh nặng là bệnh. Theo “Thuyết Văn”: “Bệnh là tật tăng thêm. Bộ nạch, âm bính.” Trong “Biển Thước gặp Thái Hoàn Công” viết: “Ở 10 ngày, Biển Thước lại bái kiến, nói: Bệnh của bệ hạ ở dạ dày, không chữa sẽ nặng thêm.”
2. 疫
Dịch
亦称瘟疫,旧时对流行性传染病的称呼。《说文》:“疫,民皆疾也。从疒,役声。“清代方望溪《狱中杂记》:“此疫作也。今天时顺正,死者尚稀,往岁多至日十数人。”
Cũng gọi là ôn dịch, thời xưa dùng để gọi những bệnh mang tính truyền nhiễm. Theo “Thuyết Văn”: “Dịch, bá tính nhiều người mắc bệnh. Bộ nạch, âm dịch.” Trong “Ngục Trung tạp kí” của Phương Vọng Khê thời Thanh: “Dịch này xảy ra, ngày nay gặp thời Thuận Chính, người chết còn ít, ngày xưa nhiều đến mức một ngày chết mười mấy người.”
3. 疽(jū)—痈(yōng)
Thư – Ung
疽,中医指一种毒疮,局部皮肤肿胀坚硬而皮色不变,亦称痛瘟。《说文》:“疽,痈也。”《史记・项羽本记》:“(范增)行未至彭城,疽发背而死。”
Thư (ung nhọt), y học cổ truyền chỉ một loại vết thương độc, bộ phận da bị sưng tấy, cương cứng mà màu da không đổi, cũng gọi là mụn nhọt. Theo “Thuyết văn”: “Thư là ung nhọt.” “Sử ký. Hạng Vũ bản ký”: “(Phạm Tăng) đi chưa đến Bành Thành, phát ung nhọt ở lưng mà chết.”
痈,中医也指一种脓疮,与疽同。
“Ung” , trong Trung y cũng chỉ một loại vết thương có mủ, cùng nghĩa với “thư”.
4. 痹(bì)
Tê
中医指由风、寒、湿等引起的肢体肿痛或麻木的病。痹为神经系统病,肢体失去知觉,而顽麻肿痛也。故又称麻痹。
Trung y chỉ các chứng bệnh mà tứ chi (hoặc tứ chi và thân người) sưng đau hoặc tê liệt do gió, lạnh, ẩm ướt. Tê là bệnh thuộc hệ thần kinh, tứ chi mất đi cảm giác và cứ tê nhức sưng lên. Do đó còn gọi là tê liệt.
5. 痼(gù)
Cố
久治难愈的病为痼,也称痼疾。
Những bệnh chữa trị thời gian dài, mà khó khỏi gọi là “cố” (bệnh nan y), cũng còn gọi là “cố tật”.
6. 疵(cī)
Tì
小毛病叫疵。成语吹毛求疵的意思是故意挑剔毛病,寻找差错。
Tật nhẹ gọi là “tì” (vết). Ý của câu thành ngữ “bới lông tìm vết” là cố ý soi mói khuyết điểm, tìm chỗ sai sót.
7. 五藏—六府
Ngũ tạng – Lục phủ
五藏亦作五脏,也叫五内。古称心、肝、脾、肺、肾为五藏。六府亦作六腑。古称胆、胃、小肠、大肠、三焦、膀胱为六府。《吕氏春秋・达郁》:“五藏六府。”《明湖居听书》:“五脏六腑里,像熨斗熨过,无一处不伏贴。”
Ngũ tạng(五藏)cũng viết là 五脏 (ngũ tạng), còn gọi là ngũ nội. Xưa gọi tim, gan, lá lách, phổi, thận là ngũ tạng. Lục phủ(六府)cũng viết là 六腑¸ (lục phủ). Xưa gọi mật, dạ dày, ruột non, ruột già, tam tiêu (từ cuống lưỡi qua lồng ngực đến khoang bụng), bàng quang là lục phủ. Trong “Lã Thị Xuân Thu. Đạt Uất” viết: “Ngũ tạng lục phủ.” “Minh Hồ Cư Thính Thư” : “Trong ngũ tạng lục phủ, như bàn là ủi qua, không có chỗ nào không bị áp sát ở bên trên.”
8. 五官—七窍
Ngũ quan – thất khiếu
中医称耳、目、口唇、鼻、舌为五宫。五官分属五脏。理七窍指两眼、两耳、两鼻孔和口。
Y học cổ truyền gọi tai, mắt, miệng, mũi, lưỡi là ngũ quan. Ngũ quan chia thuộc ngũ tạng. Thất khiếu chỉ hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng.
9. 七情—六欲
Thất tình – Lục dục
古称喜、怒、忧、思、悲、恐、惊七种情态为七情。七情的变化,是人体对外界事物的反应,属生理活动,对整个身体皆有影响。
Thời xưa gọi bảy loại trạng thái tình cảm: vui, giận, ưu sầu, suy nghĩ, đau buồn, lo sợ, kinh hoàng là thất tình. Sự biến đổi của thất tình là phản ứng của cơ thể con người đối với sự vật bên ngoài, thuộc hoạt động sinh lí, đối với cả cơ thể đều có ảnh hưởng.
欲即欲望,六欲是人各种欲望的一个总称。高诱以为是生、死、耳、目、口、鼻之欲。佛家则以色欲、形貌欲、威仪姿态欲、言语音声欲、细滑欲、人想欲为六欲。后泛指各种情欲。
Dục tức là dục vọng, lục dục là tên gọi chung chỉ các loại dục vọng của con người. Cao Dụ cho là các dục vọng của sống, chết, tai, mắt, miệng, mũi. Nhà Phật cho là sắc dục, hình mạo dục, uy nghi tư thái dục, ngôn ngữ âm thanh dục, tế hoạt dục, nhân tưởng dục là lục dục. Về sau phiếm chỉ các loại tình dục.
10. 膏盲(gāo huāng)
Cao hoang
中医古代把心尖脂肪叫膏,心脏和隔膜之间叫盲,认为是药力达不到的地方。成语病入膏育的意思是病到了无法医治的地步,比喻事情严重到了不可挽救的程度。
Y học cổ truyền gọi mỡ ở chót tim là cao, tim và hoành cách mô gọi là hoang, cho rằng cao hoang là nơi mà thuốc không thể trị đến. Ý của thành ngữ bệnh nhập cao hoanglà bệnh không còn cách cứu chữa, ví như sự việc nghiêm trọng tới mức không thể cứu vãn.
11. 针—砭(biān)
Châm (kim châm) – Biêm (Kim đá, lễ)
均为古代医疗器具或医疗方法。针,最早为石针,叫做贬,后来才有金属针。古人以针(砭)刺人体穴位治病,今仍有“针灸”、“针眨”之说。《说文》:“砭,以石刺病也。”《扁鹊见蔡桓公》:“(疾)在肌肤,针石之所及也。”其中“针石”即针灸、针砭之意。
Chúng đều là dụng cụ chữa trị hoặc phương pháp chữa trị thời xưa. Châm, ra đời sớm nhất là thạch châm gọi là lễ, về sau mới có châm bằng kim loại. Người xưa dùng kim (kim đá) đâm vào vị trí các huyệt trên cơ thể để trị bệnh, ngày nay vẫn có cách nói “châm cứu”, “châm lễ”. “Thuyết văn”:“Lễ, dùng đá đâm vào để trị bệnh.” “Biển Thước Kiến Thái Hoàn Công”: “(Bệnh) ở da thịt, nơi châm thạch có thể đến.” trong đó “châm thạch” ý chỉ châm cứu, châm lễ.
12. 五毒
Ngũ độc
古指用以治病的五种有毒性的药物。另,古人也称蛇、蝎、蜈蚣、壁虎、蟾蜍为五毒。
Ngày xưa dùng để chỉ năm loại thuốc có độc tính dùng để chữa bệnh. Ngoài ra, người xưa cũng gọi rắn, bò cạp, rết, thạch sùng, cóc là ngũ độc.
13. 炮(páo)制
Bào chế
用中草药原料制成药物叫炮制,又作炮炙。方法是烘、炮、炒、洗、泡、漂、蒸、煮等。壶井荣《蒲公英》:“据新闻杂志的报道,把蒲公英在开水里烫过,去了苦味就好吃的,我们如法炮制过一次,却再没有勇气去找来吃了。”今天,炮制一词被引申为编造、制订,多含贬义。
Dùng nguyên liệu thảo dược trung y chế thành thuốc gọi là bào chế, còn gọi là bào chích. Phương pháp là sấy, sao,rang, rửa, ngâm, đãi, chưng, nấu …. “Bồ Công Anh” của Hồ Tĩnh Vinh: “Theo báo Tân Văn Tạp Chí, ngâm bồ công anh trong nước nóng, mất đi vị đắng mới ngon. Nếu chúng ta bào chế theo lối cũ qua một lần, thì lại không có dũng khí để tìm ăn nữa.” Ngày nay, từ bào chế được mở rộng là tạo dựng, thiết lập phần nhiều hàm chứa ý nghĩa xấu.
14.扁鹊
Biển Thước
先秦时著名医学家。姓秦,名越人,号扁鹊,在世于春秋战国之际。他总结的望、闻、问、切的诊法,针、费、汤剂、药酒等疗法,一直沿用至今。《扁鹊见蔡桓公》一文记述了扁鹊忠告蔡桓公及早治病而遭拒绝的故事,扁鹊高超的医疗水平从中可以窥见一斑。
Là nhà y học nổi tiếng thời Tiên Tần. Họ Tần, tên Việt Nhân, hiệu Biển Thước, sống giữa thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông tổng kết phương pháp chẩn bệnh: nhìn, nghe, hỏi, tiếp xúc, và các cách chữa bệnh: châm, là, thang thuốc, rượu thuốc, còn dùng đến ngày nay. Bài văn ký “Biển Thước Kiến Thái Hoàn Công” đã miêu tả lại câu chuyện Biển Thước chân thành khuyên Thái Hoàn Công sớm chữa bệnh nhưng bị chối từ, trong đó có thể nhìn thấy được trình độ chữa bệnh cao siêu của Biển Thước.
15.华佗
Hoa Đà
东汉末著名医学家。他是一位民间医生,与当时的张仲景齐名。其医术高明,精通内、外、妇、儿、针灸各科,尤擅长外科,早于西方一千六百余年发明手术麻醉剂——麻沸散,并编有强身健体、防疾治病的“五禽戏”,堪称一代神医。后因不从曹操征召,遂为所杀。所著医书已佚,现存《中藏经》,为后人托名之作。
Là nhà y học nổi tiếng cuối thời Đông Hán. Ông là một thầy thuốc dân gian, nổi tiếng ngang với Trương Trọng Cảnh lúc bấy giờ. Y thuật của ông cao minh, tinh thông các khoa nội, ngoại, phụ nữ, trẻ em, châm cứu, có khả năng đặc biệt về ngoại khoa, phát minh ra thuốc tê trong phẫu thuật, Ma Phí Tán sớm hơn phương Tây hơn 1600 năm, đồng thời có bài thuốc “Ngũ cầm hí” giúp cường tráng thân thể, phòng và trị bệnh, có thể gọi là thần y của một thời. Về sau, vì ông không theo lệnh gọi của Tào Tháo mà bị giết chết. Sách y học của ông đã bị thất lạc, hiện còn “Trung Tàng Kinh”, là tác phẩm do người đời sau mượn danh ông viết ra.
