一诺千金 — LỜI HỨA NGÀN VÀNG

去陕西出差,先到一个很偏远的小镇,接着坐汽车到村里。路凹凸不平特难走。沿着盘山公路转悠,没多久我就开始晕车,吐得一塌糊涂。“还有多远呀?”我有气无力地问。“快了,一小时吧,再翻两座山。”陪我们的副镇长说。过一条湍急的河时,司机放慢速度小心翼翼地开。“这水真大。”我说。“这还算好呢,到雨季水都漫过桥,特危险。”

Đi công tác ở Thiểm Tây, trước tiên phải đến một thị trấn nhỏ hẻo lánh, sau đó đáp xe buýt vào trong làng. Con đường vào làng gồ ghề rất khó đi. Men theo con đường uốn khúc theo vách núi, chưa được bao lâu tôi bắt đầu say xe và nôn thốc nôn tháo. “Còn bao xa nữa?” Tôi hỏi vẻ mệt mỏi. “Sắp rồi, khoảng 1 tiếng đồng hồ nữa, qua thêm hai ngọn núi nữa là tới.” Phó trấn trưởng người đưa chúng tôi đi liền nói. Khi qua một con sông nước chảy rất xiết, tài xế cho xế chạy chậm lại một cách cẩn thận. “Nước ở đây lớn thật.” tôi nói, “Bây giờ còn đỡ, đến mùa mưa nước dâng ngập cả cây cầu, rất nguy hiểm.”

开会时我负责照相,一群小孩子好奇地围着我。该换胶卷了,我随手把空胶卷盒给旁边一个小孩子,她高兴极了,其他孩子羡慕地围着看。看着小孩儿喜欢,我又拆了个胶卷盒给另一个孩儿,他兴奋得脸都红了。翻翻书包再找出两支圆珠笔分给孩子们,惹得更多的孩子渴望地看着我的包,真后悔没多带几支笔。我拉着一个穿红碎花小褂的女孩儿问:“叫什么呀?”“小翠。”“有连环画没有”“没有。”旁边男孩儿说:“学校有校长有本字典。”“姐姐回北京给你们寄连环画来,上面有猫和老鼠打架,小鸭子变成天鹅的故事。”听得他们眼睛都真了。

Lúc họp tôi phụ trách chụp ảnh, một đám trẻ con hiếu kỳ cứ vây lấy tôi. Đến lúc cần thay phim, tôi tiện tay đưa cái vỏ hộp đựng phim cho một đứa bé bên cạnh, cô bé rất vui mừng, những đứa trẻ khác ngưỡng mộ vây quanh nhìn. Nhìn thấy đám trẻ con thích thú, tôi lại tháo thêm một hộp đựng phim cho một đứa khác, thằng bé vui đến đỏ cả mặt. Lục tìm trong túi xách được thêm vài cây bút chì chia cho đám trẻ, khiến cho càng nhiều đứa khác cứ nhìn chằm chằm vào túi xách tôi một cách thèm thuồng, thật tiếc là lúc đi chẳng mang thêm vài cây bút chì. Tôi kéo một con bé mặc áo hoa màu đỏ hỏi: “Em tên gì? “Dạ Tiểu Thúy.” “Em có truyện tranh không?” “Dạ không ạ.” Cậu bé bên cạnh nói: “Ở trường học chỉ có hiệu trưởng có 1 cuốn tự điển thôi.” “Chị trở về Bắc Kinh sẽ gửi truyện tranh cho các em, trong đó có truyện mèo và chuột đánh nhau, truyện vịt con biến thành thiên nga.” Đám trẻ nghe mà mắt cứ sáng rỡ.

我拿出笔记本,记个地止吧,“陕西x县李庄小学”,“谁收呢?”“俺姐识字,她收。”过来个大一点的女孩儿,“姐姐,写李大翠收。”“好吧。”

Tôi lấy quyển sổ ghi chép ghi lại địa chỉ, “Trường tiểu học Lý Trang huyện xx tỉnh Thiểm Tây”, “ai sẽ là người nhận?” “Chị gái em biết chữ, chị ấy sẽ nhận.” Một cô bé có vẻ lớn hơn một chút bước ra, “Chị ơi, chị viết Lý Đại Thúy nhận chị nhé.” “Được.”

从陕西又转道去四川、青海。回北京忙着写报告,译成英文,开汇报会,一晃就两个月了。偶尔翻到笔记本上的“李大翠”,猛然想起小村子的孩子们。犹豫了一下,“孩子们早忘了吧。就是寄过去,也许路上丢了,也许被人拿走了,根本到不了孩子们手里。”

Từ Thiểm Tây đi tiếp đến Tứ Xuyên, Thanh Hải. Trở về Bắc Kinh lại bận viết báo cáo, dịch sang tiếng Anh, mở buổi họp báo, thoáng cái mà đã hai tháng. Vô tình lật trúng chữ “Lý Đại Thúy” ghi chép trong cuốn sổ, chợt nhớ đến đám trẻ ở ngôi làng nhỏ. Do dự một lát, “chắc bọn trẻ đã quên từ lâu. Cho dù gửi đi, có lẽ sẽ thất lạc, hoặc giả có thể bị người khác lấy mất, vốn dĩ chẳng thể đến tay bọn trẻ.”

第二天,还是拜托有孩子的同事带些旧书来。大家特热情,没几天,我桌上就堆了好几十本,五花八门什么都有:《黑猫警长》、《邋遢大王》、《鼹鼠的故事》、《十万个为什么》、《如何预防近视眼》,居然还有一本《我长大了,我不尿床》,呵呵,有婴儿的妈妈给的。从家里找了本《新华字典》,又跑书店买了本《课外游戏300例》,一同寄走了。

Ngày hôm sau, vẫn nhờ những đồng nghiệp có con quyên một ít sách cũ. Mọi người đều rất nhiệt tình, chẳng mấy hôm trên bàn tôi đã chất cả đống mấy chục quyển sách đủ thể loại: “Cảnh sát trưởng mèo đen”, “Ông vua lọ lem”, “Chuyện chú chuột đồng”, “10.000 câu hỏi vì sao”, “Làm thế nào để phòng ngừa bệnh cận thị”, còn có cả một quyển “Tôi lớn rồi, không tè dầm nữ”, khà khà, quyển này do một chị có con nhỏ cho. Tìm trong nhà được quyển “Tân Hoa tự điển”, rồi đến nhà sách mua thêm quyển “300 trò chơi ngoại khóa”, gửi đi cùng một lượt.

快忘了的时候,接到李庄的信:“北京姐姐你好,从你走以后,村里的娃娃天天都说这事儿。我们经常去镇上邮局看看,嘱咐那儿的叔叔、婶婶,‘有北京来的信一定收好啊,我们的。’等了两个月没有,村里大人笑我们,‘北京的姐姐随口说的,城里人,嘿嘿,不作数的。’我们不信,姐姐清清楚楚在本子上记了我们的地址啊。后来发大水了,妈妈不让去镇上。我拉着小翠偷偷去,其实不远,半天就到了。万一书寄来了呢?万一我们不在被别人拿走了呢?那天终于收到了。姐姐,你知道我们有多高兴吗?用化肥袋子包了好几层,几十里路跑着回来的!晚上全村的娃娃都到我家来了。小翠是搂着书睡的,任谁也拿不走。第二天拿到学校,老师说建个‘图书角’,让我当管理员。看书的人必须洗干净手,不能弄坏了。书真好看,故事我们都背下来了,还给俺娘讲哩。”

Đến khi sắp quên chuyện đó, thì nhận được lá thư của Lý Trang: “Kính gửi chị gái Bắc Kinh, sau khi chị đi, các em nhỏ trong thôn mỗi ngày đều nhắc đến chuyện này. Chúng em thường đến bưu điện của thị trấn để hỏi thăm tin tức, dặn các chú, các thím ở đó nếu có ‘thư Bắc Kinh gửi đến thì phải cất kỹ, là của chúng cháu.’ Đợi suốt hai tháng chẳng thấy gì, những người lớn trong thôn cười chúng em, ‘Chị gái Bắc Kinh chỉ vui miệng nói thế thôi, người thành phố, khà khà, thường không giữ lời đâu.’ Chúng em không tin, rõ ràng chị đã ghi địa chỉ của chúng em vào sổ ghi chép rồi mà. Sau này khi nước lớn, mẹ không cho phép chúng em lên thị trấn nữa. Em kéo Tiểu Thúy lén đi, thật ra đường không xa, chỉ mất nửa ngày là đến. Nếu lỡ có sách gửi đến thì sao? Lỡ chúng em không ở đó sách bị người khác lấy mất thì sao? Hôm đó cuối cùng đã nhận được. Chị ơi, chị biết chúng em vui sướng đến nhường nào không? Lấy bao phân gói kỹ lưỡng hết mấy lớp, một mạch chạy mấy chục cây số về đến nhà! Buổi tối tất cả các em nhỏ trong làng đều đến nhà em. Tiểu Thúy còn ôm cả sách đi ngủ, chẳng ai lấy được cuốn sách ra khỏi nó. Hôm sau mang đến trường, thầy giáo nói sẽ lập ‘thư viện’ để em làm người quản lý. Người nào muốn đọc sách phải rửa tay sạch sẽ, không được làm hư sách. Sách hay lắm chị ạ, chúng em hầu như thuộc hết những truyện trong đó, còn kể cho mẹ em nghe nữa đấy.”

我看着窗外,眼睛湿了,想着那两座高山,漫过桥的大水,泥泞的山路一高一矮两个单薄的身影。我为曾经的犹豫感到羞愧,幸亏寄出去了,要不永远对不起孩子们,伤了他们的心,拿什么来补。

Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, mắt đã ướt tự lúc nào, nghĩ đến hai ngọn núi cao và nước lũ đã ngập qua cây cầu, hai dáng người mỏng manh một cao một thấp trên đường núi lầy lội. Tôi xấu hổ cho sự do dự của mình trước đây, may mà đã gửi sách đi, nếu không sẽ mãi mãi có lỗi với bọn trẻ, làm tổn thương trái tim chúng thì biết lấy gì bù đắp.

后来陆续又寄了一些书和文具。秋天来了,收到一个沉甸甸的大包,李庄的。里面是大枣,红亮红亮地透着喜庆,夹着字条:“姐姐,队长说今年最好的枣不许卖,寄给北京。”我把枣分给捐书的同事,大家说从来没吃过这么甜的枣。

Sau này lại tôi tiếp tục gửi thêm một số sách và văn phòng phẩm. Mùa thu đến, tôi nhận được một bao lớn nặng trịch từ Lý Trang. Bên trong là những quả táo chín mọng, căng tròn và mảnh giấy: “Chị ơi, đội trưởng nói những quả táo ngon nhất của năm nay không được mang bán mà gửi cho Bắc Kinh.” Tôi mang táo chia cho những đồng nghiệp đã quyên sách, mọi người đều nói trước giờ chưa bao giờ ăn được táo ngọt đến thế.”

从那以后,我明白了什么叫“一诺千金”。

Kể từ đó, tôi hiểu được thế nào là “lời hứa ngàn vàng.”

Lên đầu trang