人们用天上掉馅饼,来形容好事的发生。
Mọi người lấy chuyện bánh có nhân từ trên trời rơi xuống để hình dung xảy ra chuyện tốt.
馅饼
Bánh có nhân
你见过天上掉馅饼吗?你被天上掉下的馅饼砸过头吗?你肯定没有,可我有啊,信吗,而且不止一个,是3个。
Bạn có từng thấy bánh có nhân từ trên trời rơi xuống không? Bạn đã bị bánh có nhân trên trời rơi xuống nện lên đầu chưa? Bạn chắc không có, nhưng tôi thì có, tin không, hơn nữa không chỉ một, mà là ba.
事情是这样的:那天我搭双层巴士去领奖,我中了体彩300元。顺带着,逃掉了一场相亲。据介绍人讲,这个男孩很好,很有出息,很英俊。可是,天下英俊男生多了去了,我还没堕落到上“非常男女”的地步。
Sự việc là thế này: Hôm đó tôi đi xe buýt hai tầng đến lãnh thưởng, tôi trúng giải vé số 300 đồng, tiện thể trốn một cuộc xem mắt. Theo người giới thiệu nói, người con trai này rất tốt, rất có triển vọng và rất đẹp trai. Nhưng, đàn ông đẹp trai trong thiên hạ đã nhiều quá rồi, tôi còn chưa rơi đến tình cảnh “nam nữ khác thường”.
车到站,我第一个蹿下车,脚刚落地,头上就被什么东西拍了一记,然后又是一记,刚站好又是一记,吓得我再也不敢动,而地上,正滚着仨汉堡包。
Xe đến trạm, tôi là người đầu tiên nhảy xuống xe, chân mới vừa chạm đất, trên đầu bị vật gì nện một cái, rồi lại một cái, vừa đứng xong lại thêm một cái, khiến tôi sợ đến nỗi không dám động đậy, và trên mặt đất đang lăn tròn ba cái bánh ham-bơ-gơ.
我一直觉得汉堡包就是外国人的馅饼,你看吧,中国人长得比较瘦,所以馅饼也薄,外国人粗枝大叶,馅饼也就心宽体胖。就这样三个肥硕的大馅饼以自由落体的方式都砸我头上了,我嚷嚷起来了:“谁干的,下来!”
Tôi luôn cảm giác bánh ham-bơ-gơ là bánh có nhân của người ngoại quốc, bạn xem, người Trung Quốc khá gầy, cho nên bánh có nhân cũng mỏng, người ngoại quốc cao to, bánh có nhân cũng to lớn đầy nhân. Cứ thế, ba cái bánh có nhân to tướng đều nện xuống đầu tôi theo phương thức rơi tự do, tôi la lên: “Ai làm thế, xuống đây!”
我头上顶着一片馅饼里的圆白菜叶儿,双层巴士上伸出一个个脑袋,大家都一脸无辜的样子,接着就是一阵爆笑。
Trên đầu tôi đang dính một miếng lá cải trắng tròn trong bánh có nhân, trên xe buýt hai tầng thò ra từng cái đầu một, mọi người đều làm ra vẻ vô tội, tiếp theo là một trận cười ầm.
车开走了。这时,耳边有个小声音说:“小姐,对不起……”
Xe đã chạy đi, lúc đó, bên tai tôi có một tiếng nói nhỏ: “Cô à, xin lỗi….”
彩票
Trúng số
是个男生,眼睛眨巴眨巴的:“小姐,我不是故意的,下车时候人太挤,一失手汉堡包掉了……”说着,他伸手要帮我摘掉头上的菜叶,我一晃头拒绝了。可是因为这一晃头,菜叶搭到我额头上,就像长了碧绿眼珠的二郎神,他忍不住哈哈大笑,他说:“别生气了,这样不好。”
Là một nam sinh, mắt nhấp nháy: “Cô à, tôi không phải cố ý, lúc xuống xe, người ta chen chúc quá, lỡ tay làm bánh ham-bơ-gơ rơi xuống…” nói đoạn, anh ta đưa tay muốn giúp tôi gạt lá cải trên đầu xuống, tôi lắc đầu từ chối. Nhưng do lắc đầu nên lá cải mắc trên trán tôi giống như Nhị Lang Thần mọc ra con mắt xanh biếc, anh ta nhịn không nổi cười ha ha, anh ta nói: “Đừng tức giận nữa, như thế không tốt.”
怎么反倒他来安慰我了?明明做坏事的是他,他应该被讨伐才对!我就认真地说:“你知道你今天犯了什么错误吗?”
Làm sao ngược lại anh ta lại an ủi tôi chứ? Rõ ràng người làm chuyện xấu là anh ta mà, anh ta đáng lẽ phải bị trừng phạt mới đúng! Tôi nghiêm túc nói: “Anh biết hôm nay anh phạm lỗi gì không?”
“我不应该砸你。”
“Tôi không nên nện cô.”
“不对,你主要是破坏了我的心情。”
“Không đúng, anh chủ yếu là phá hỏng tâm trạng của tôi.”
“什么心情?”
“Tâm trạng gì?”
“我今天本来很高兴。”我拿出了彩票,“看见没有,我中奖了,可是,你破坏了我的心情,中一次奖容易吗?”
“Tôi hôm nay vốn rất vui.” Tôi chìa ra tấm vé số, “có thấy không, tôi đã trúng số, nhưng anh đã phá hỏng tâm trạng của tôi, trúng số dễ lắm sao?”
他笑了,眼睛小灯泡一样亮起来:“看不出你也买彩票啊。”
Anh ta cười, mắt sáng lên như cái bóng đèn: “Xem ra cô cũng mua vé số à.”
那天的结果是,他跟我来到领奖地点,掏出200块,全部买了和我相关的号码,比如我注意过的出租车牌子,我扔掉的车票票根号,我路过的广告牌上面的电话。他说,你是个幸运的人,你一出现,天上就掉馅饼。
Kết quả ngày hôm đó là anh cùng tôi đến chỗ lãnh thưởng, móc ra hai trăm đồng, mua hết những số có liên quan đến tôi, ví dụ biển số xe taxi mà tôi chú ý, số cuống phiếu vé xe mà tôi vứt đi, số điện thoại trên tấm biển quảng cáo mà tôi đi ngang qua. Anh ta nói, cô là một người may mắn, cô vừa xuất hiện thì trên trời liền rơi xuống bánh có nhân.
但是都没中。
Nhưng đều không trúng.
M记
Mcdonad’s
那片圆白菜叶最后还是被拿掉了,而我也同意由他弥补错误,请我吃一顿丰盛的M记。其实M记有什么好吃的,不过就是汉堡鸡翅可乐,但是你知道,有时候吃东西并不只为了吃东西。
Miếng lá cải trắng tròn đó cuối cùng cũng được lấy xuống, và tôi cũng đồng ý do anh ta bù đắp lỗi lầm, mời tôi ăn một bữa Mcdonad’s thịnh soạn. Thực ra Mcdonad’s có gì ngon, chẳng qua là ham-bơ-gơ cánh gà coca, nhưng bạn biết đấy, có khi ăn cái gì hoàn toàn không chỉ để ăn.
我观赏着这位精巧的帅哥,他有麦壳色的皮肤,乌漆漆的眉眼。他对我百依百顺:还要再加一个圣代吗?还要加一杯可乐吗?我拒绝了,我已经很撑了,今天应该是馅饼节,你看,幸运一再地光临我。
Tôi ngắm thấy anh chàng đẹp trai tinh tế khéo léo này, anh ta có nước da bánh mật, mắt và lông mày đen nhánh. Anh ta ngoan ngoãn nghe theo tôi: Còn cần dùng thêm một lu kem nước quả nữa không? Hay là thêm một ly coca? Tôi từ chối, tôi đã no căng bụng rồi, hôm nay đáng lẽ là ngày tết bánh có nhân, bạn xem, may mắn một lần nữa lại ghé thăm tôi.
“喂,你干吗一次要买3个汉堡呢?”
“Này, anh sao mà phải mua một lần ba cái bánh ham-bơ-gơ?”
他笑呵呵:“一日三餐啊。”
Anh ta cười hơ hớ: “Một ngày ba bữa.”
“天天吃汉堡?”
“Hằng ngày ăn ham-bơ-gơ ư?”
他点头。
Anh ta gật đầu.
我忽然敬仰他了,一个人天天吃汉堡还能长这么好看,不简单。“你是干什么的?”
Tôi đột nhiên ngưỡng mộ anh ta, một người hằng ngày ăn ham-bơ-gơ còn có thể lớn lên đẹp như vậy sao, không đơn giản. “Anh làm gì?”
“我啊,没什么事可做,在家写写小说。”
“Tôi à, không có việc gì để làm, ở nhà viết tiểu thuyết.”
我晕,遇到作家了。
Tôi choáng, đã gặp được nhà văn.
名作家
Một nhà văn
我回到我的小房子里,这是我的家,也是我的店,不知道卖什么好,就卖鞋子。
Tôi trở về trong ngôi nhà nhỏ của mình, đây là nhà tôi, cũng là tiệm của tôi, không biết bán cái gì tốt, cứ bán giày vậy.
店开了一年,工工整整的鞋子几乎一双也没卖出去,倒是清芬路上淘来的一张麂皮做的几双移色皮拖鞋,脱销了。
Tiệm đã mở một năm, những đôi giày ngay ngắn gần như chưa bán được đôi nào, ngược lại mấy đôi dép lê da sặc sỡ được làm bằng một miếng da hươu tìm trên đường Thanh Phân thì đã bán hết.
模式就从此固定下来,麂皮拖鞋,外带麂皮凉鞋,由本人设计,请清芬路的老鞋匠手工制作。每做一双我给他50元手工费,其余的由我来搞掂。种种下来,如果每双鞋子卖到300块的话,我就可以赚80块,真是爽歪歪。
Kiểu dáng cứ cố định theo đó, dép lê da hươu, ngoài ra còn có xăng- đan da hươu, do tôi thiết kế, tôi mời một người thợ giày đường Thanh Phân may tay. Cứ mỗi đôi tôi trả cho ông ấy năm mươi đồng tiền công, phần còn lại do tôi cân nhắc. Trừ đi nhiều chi phí, nếu mỗi đôi bán được 300 đồng, tôi có thể kiếm được 80 đồng, đúng là sướng khoái.
我这人没什么大志向,每天吃得饱,睡得好,买买彩票,过得快活就可以了,我爸妈终于承认他们的女儿也就是个小老板的命。他们就说:唉,由她去吧。
Con người tôi đây không có chí hướng gì lớn, mỗi ngày ăn no, ngủ ngon, mua vé số, sống cuộc sống vui vẻ là được rồi, cha mẹ tôi cuối cùng cũng thừa nhận con gái của họ cũng có số làm bà chủ nhỏ. Cha mẹ cứ nói: Ây, tuỳ nó thôi.
但有件事他们一直没有放松过,那就是相亲,三天两头,我要被拉出去相一次亲,我就像是化学实验品,他们不停地把各种男生扔到我的实验器皿里,看会不会发生爆炸、火花或者产生气体什么的。
Nhưng có chuyện cha mẹ mãi không chịu bỏ qua, đó chính là xem mắt, ba ngày hai lượt, tôi sẽ bị kéo đi xem mắt một lần, tôi giống như là sản phẩm thí nghiệm hoá học, họ không ngừng đem các loại con trai vứt vào trong dụng cụ thí nghiệm máu của tôi, xem có thể xảy ra nổ, xẹt lửa không hoặc là xuất hiện thể khí gì đó.
比如今天,我去见的是一大相扑,爸妈也真够狠心的,竟然想把他们的女儿嫁给一头大象,就不怕他一巴掌像拍蚊子一样把我拍死?不行,我要断了爸妈给我相亲的念想。
Như hôm nay, người tôi đi gặp là một anh Sumo, ba mẹ tôi cũng thật nhẫn tâm, lại muốn gả con gái của họ cho một con voi lớn, không sợ anh ta một bàn tay đập chết tôi giống như đập muỗi sao? Không được, tôi phải căt đứt ý định cho tôi coi mắt của cha mẹ.
我就想起李白。对了,他告诉我,他叫李白。我想起他是有原因的:第一,他是新人,不像我那帮狐朋狗友,个个脸熟,一看就知道是托儿;第二,有实力,人长得顺眼,表情也阳光,招人疼的典型。
Tôi nhớ đến Lý Bạch, đúng rồi, anh ta nói với tôi, anh tên là Lý Bạch. Tôi nghĩ đến anh ta là có nguyên nhân: thứ nhất, anh ta là người mới, không giống bọn bạn xấu của tôi, đứa nào cũng quen mặt, vừa nhìn thì biết là người do tôi nhờ vả; thứ hai, anh ta có thực lực, dáng dấp vừa mắt, vẻ mặt cũng sáng sủa, là điển hình khiến người ta yêu mến.
我上了MSN。
Tôi đã lên MSN.
他正好在线,我马上说明来意,结尾还加了一句:“你想想你砸过我那3个大馅饼,我现在还脑震荡呢。”
Đúng lúc anh ta đang ở trên mạng, tôi lập tức nói rõ ý định, kết thúc còn thêm một câu: “Anh nghĩ đi, anh nện lên đầu tôi ba cái bánh có nhân đó, tôi bây giờ còn bị chấn thương đầu
人们用天上掉馅饼,来形容好事的发生。
Mọi người lấy chuyện bánh có nhân từ trên trời rơi xuống để hình dung xảy ra chuyện tốt.
馅饼
Bánh có nhân
你见过天上掉馅饼吗?你被天上掉下的馅饼砸过头吗?你肯定没有,可我有啊,信吗,而且不止一个,是3个。
Bạn có từng thấy bánh có nhân từ trên trời rơi xuống không? Bạn đã bị bánh có nhân trên trời rơi xuống nện lên đầu chưa? Bạn chắc không có, nhưng tôi thì có, tin không, hơn nữa không chỉ một, mà là ba.
事情是这样的:那天我搭双层巴士去领奖,我中了体彩300元。顺带着,逃掉了一场相亲。据介绍人讲,这个男孩很好,很有出息,很英俊。可是,天下英俊男生多了去了,我还没堕落到上“非常男女”的地步。
Sự việc là thế này: Hôm đó tôi đi xe buýt hai tầng đến lãnh thưởng, tôi trúng giải vé số 300 đồng, tiện thể trốn một cuộc xem mắt. Theo người giới thiệu nói, người con trai này rất tốt, rất có triển vọng và rất đẹp trai. Nhưng, đàn ông đẹp trai trong thiên hạ đã nhiều quá rồi, tôi còn chưa rơi đến tình cảnh “nam nữ khác thường”.
车到站,我第一个蹿下车,脚刚落地,头上就被什么东西拍了一记,然后又是一记,刚站好又是一记,吓得我再也不敢动,而地上,正滚着仨汉堡包。
Xe đến trạm, tôi là người đầu tiên nhảy xuống xe, chân mới vừa chạm đất, trên đầu bị vật gì nện một cái, rồi lại một cái, vừa đứng xong lại thêm một cái, khiến tôi sợ đến nỗi không dám động đậy, và trên mặt đất đang lăn tròn ba cái bánh ham-bơ-gơ.
我一直觉得汉堡包就是外国人的馅饼,你看吧,中国人长得比较瘦,所以馅饼也薄,外国人粗枝大叶,馅饼也就心宽体胖。就这样三个肥硕的大馅饼以自由落体的方式都砸我头上了,我嚷嚷起来了:“谁干的,下来!”
Tôi luôn cảm giác bánh ham-bơ-gơ là bánh có nhân của người ngoại quốc, bạn xem, người Trung Quốc khá gầy, cho nên bánh có nhân cũng mỏng, người ngoại quốc cao to, bánh có nhân cũng to lớn đầy nhân. Cứ thế, ba cái bánh có nhân to tướng đều nện xuống đầu tôi theo phương thức rơi tự do, tôi la lên: “Ai làm thế, xuống đây!”
我头上顶着一片馅饼里的圆白菜叶儿,双层巴士上伸出一个个脑袋,大家都一脸无辜的样子,接着就是一阵爆笑。
Trên đầu tôi đang dính một miếng lá cải trắng tròn trong bánh có nhân, trên xe buýt hai tầng thò ra từng cái đầu một, mọi người đều làm ra vẻ vô tội, tiếp theo là một trận cười ầm.
车开走了。这时,耳边有个小声音说:“小姐,对不起……”
Xe đã chạy đi, lúc đó, bên tai tôi có một tiếng nói nhỏ: “Cô à, xin lỗi….”
彩票
Trúng số
是个男生,眼睛眨巴眨巴的:“小姐,我不是故意的,下车时候人太挤,一失手汉堡包掉了……”说着,他伸手要帮我摘掉头上的菜叶,我一晃头拒绝了。可是因为这一晃头,菜叶搭到我额头上,就像长了碧绿眼珠的二郎神,他忍不住哈哈大笑,他说:“别生气了,这样不好。”
Là một nam sinh, mắt nhấp nháy: “Cô à, tôi không phải cố ý, lúc xuống xe, người ta chen chúc quá, lỡ tay làm bánh ham-bơ-gơ rơi xuống…” nói đoạn, anh ta đưa tay muốn giúp tôi gạt lá cải trên đầu xuống, tôi lắc đầu từ chối. Nhưng do lắc đầu nên lá cải mắc trên trán tôi giống như Nhị Lang Thần mọc ra con mắt xanh biếc, anh ta nhịn không nổi cười ha ha, anh ta nói: “Đừng tức giận nữa, như thế không tốt.”
怎么反倒他来安慰我了?明明做坏事的是他,他应该被讨伐才对!我就认真地说:“你知道你今天犯了什么错误吗?”
Làm sao ngược lại anh ta lại an ủi tôi chứ? Rõ ràng người làm chuyện xấu là anh ta mà, anh ta đáng lẽ phải bị trừng phạt mới đúng! Tôi nghiêm túc nói: “Anh biết hôm nay anh phạm lỗi gì không?”
“我不应该砸你。”
“Tôi không nên nện cô.”
“不对,你主要是破坏了我的心情。”
“Không đúng, anh chủ yếu là phá hỏng tâm trạng của tôi.”
“什么心情?”
“Tâm trạng gì?”
“我今天本来很高兴。”我拿出了彩票,“看见没有,我中奖了,可是,你破坏了我的心情,中一次奖容易吗?”
“Tôi hôm nay vốn rất vui.” Tôi chìa ra tấm vé số, “có thấy không, tôi đã trúng số, nhưng anh đã phá hỏng tâm trạng của tôi, trúng số dễ lắm sao?”
他笑了,眼睛小灯泡一样亮起来:“看不出你也买彩票啊。”
Anh ta cười, mắt sáng lên như cái bóng đèn: “Xem ra cô cũng mua vé số à.”
那天的结果是,他跟我来到领奖地点,掏出200块,全部买了和我相关的号码,比如我注意过的出租车牌子,我扔掉的车票票根号,我路过的广告牌上面的电话。他说,你是个幸运的人,你一出现,天上就掉馅饼。
Kết quả ngày hôm đó là anh cùng tôi đến chỗ lãnh thưởng, móc ra hai trăm đồng, mua hết những số có liên quan đến tôi, ví dụ biển số xe taxi mà tôi chú ý, số cuống phiếu vé xe mà tôi vứt đi, số điện thoại trên tấm biển quảng cáo mà tôi đi ngang qua. Anh ta nói, cô là một người may mắn, cô vừa xuất hiện thì trên trời liền rơi xuống bánh có nhân.
但是都没中。
Nhưng đều không trúng.
M记
Mcdonad’s
那片圆白菜叶最后还是被拿掉了,而我也同意由他弥补错误,请我吃一顿丰盛的M记。其实M记有什么好吃的,不过就是汉堡鸡翅可乐,但是你知道,有时候吃东西并不只为了吃东西。
Miếng lá cải trắng tròn đó cuối cùng cũng được lấy xuống, và tôi cũng đồng ý do anh ta bù đắp lỗi lầm, mời tôi ăn một bữa Mcdonad’s thịnh soạn. Thực ra Mcdonad’s có gì ngon, chẳng qua là ham-bơ-gơ cánh gà coca, nhưng bạn biết đấy, có khi ăn cái gì hoàn toàn không chỉ để ăn.
我观赏着这位精巧的帅哥,他有麦壳色的皮肤,乌漆漆的眉眼。他对我百依百顺:还要再加一个圣代吗?还要加一杯可乐吗?我拒绝了,我已经很撑了,今天应该是馅饼节,你看,幸运一再地光临我。
Tôi ngắm thấy anh chàng đẹp trai tinh tế khéo léo này, anh ta có nước da bánh mật, mắt và lông mày đen nhánh. Anh ta ngoan ngoãn nghe theo tôi: Còn cần dùng thêm một lu kem nước quả nữa không? Hay là thêm một ly coca? Tôi từ chối, tôi đã no căng bụng rồi, hôm nay đáng lẽ là ngày tết bánh có nhân, bạn xem, may mắn một lần nữa lại ghé thăm tôi.
“喂,你干吗一次要买3个汉堡呢?”
“Này, anh sao mà phải mua một lần ba cái bánh ham-bơ-gơ?”
他笑呵呵:“一日三餐啊。”
Anh ta cười hơ hớ: “Một ngày ba bữa.”
“天天吃汉堡?”
“Hằng ngày ăn ham-bơ-gơ ư?”
他点头。
Anh ta gật đầu.
我忽然敬仰他了,一个人天天吃汉堡还能长这么好看,不简单。“你是干什么的?”
Tôi đột nhiên ngưỡng mộ anh ta, một người hằng ngày ăn ham-bơ-gơ còn có thể lớn lên đẹp như vậy sao, không đơn giản. “Anh làm gì?”
“我啊,没什么事可做,在家写写小说。”
“Tôi à, không có việc gì để làm, ở nhà viết tiểu thuyết.”
我晕,遇到作家了。
Tôi choáng, đã gặp được nhà văn.
名作家
Một nhà văn
我回到我的小房子里,这是我的家,也是我的店,不知道卖什么好,就卖鞋子。
Tôi trở về trong ngôi nhà nhỏ của mình, đây là nhà tôi, cũng là tiệm của tôi, không biết bán cái gì tốt, cứ bán giày vậy.
店开了一年,工工整整的鞋子几乎一双也没卖出去,倒是清芬路上淘来的一张麂皮做的几双移色皮拖鞋,脱销了。
Tiệm đã mở một năm, những đôi giày ngay ngắn gần như chưa bán được đôi nào, ngược lại mấy đôi dép lê da sặc sỡ được làm bằng một miếng da hươu tìm trên đường Thanh Phân thì đã bán hết.
模式就从此固定下来,麂皮拖鞋,外带麂皮凉鞋,由本人设计,请清芬路的老鞋匠手工制作。每做一双我给他50元手工费,其余的由我来搞掂。种种下来,如果每双鞋子卖到300块的话,我就可以赚80块,真是爽歪歪。
Kiểu dáng cứ cố định theo đó, dép lê da hươu, ngoài ra còn có xăng- đan da hươu, do tôi thiết kế, tôi mời một người thợ giày đường Thanh Phân may tay. Cứ mỗi đôi tôi trả cho ông ấy năm mươi đồng tiền công, phần còn lại do tôi cân nhắc. Trừ đi nhiều chi phí, nếu mỗi đôi bán được 300 đồng, tôi có thể kiếm được 80 đồng, đúng là sướng khoái.
我这人没什么大志向,每天吃得饱,睡得好,买买彩票,过得快活就可以了,我爸妈终于承认他们的女儿也就是个小老板的命。他们就说:唉,由她去吧。
Con người tôi đây không có chí hướng gì lớn, mỗi ngày ăn no, ngủ ngon, mua vé số, sống cuộc sống vui vẻ là được rồi, cha mẹ tôi cuối cùng cũng thừa nhận con gái của họ cũng có số làm bà chủ nhỏ. Cha mẹ cứ nói: Ây, tuỳ nó thôi.
但有件事他们一直没有放松过,那就是相亲,三天两头,我要被拉出去相一次亲,我就像是化学实验品,他们不停地把各种男生扔到我的实验器皿里,看会不会发生爆炸、火花或者产生气体什么的。
Nhưng có chuyện cha mẹ mãi không chịu bỏ qua, đó chính là xem mắt, ba ngày hai lượt, tôi sẽ bị kéo đi xem mắt một lần, tôi giống như là sản phẩm thí nghiệm hoá học, họ không ngừng đem các loại con trai vứt vào trong dụng cụ thí nghiệm máu của tôi, xem có thể xảy ra nổ, xẹt lửa không hoặc là xuất hiện thể khí gì đó.
比如今天,我去见的是一大相扑,爸妈也真够狠心的,竟然想把他们的女儿嫁给一头大象,就不怕他一巴掌像拍蚊子一样把我拍死?不行,我要断了爸妈给我相亲的念想。
Như hôm nay, người tôi đi gặp là một anh Sumo, ba mẹ tôi cũng thật nhẫn tâm, lại muốn gả con gái của họ cho một con voi lớn, không sợ anh ta một bàn tay đập chết tôi giống như đập muỗi sao? Không được, tôi phải căt đứt ý định cho tôi coi mắt của cha mẹ.
我就想起李白。对了,他告诉我,他叫李白。我想起他是有原因的:第一,他是新人,不像我那帮狐朋狗友,个个脸熟,一看就知道是托儿;第二,有实力,人长得顺眼,表情也阳光,招人疼的典型。
Tôi nhớ đến Lý Bạch, đúng rồi, anh ta nói với tôi, anh tên là Lý Bạch. Tôi nghĩ đến anh ta là có nguyên nhân: thứ nhất, anh ta là người mới, không giống bọn bạn xấu của tôi, đứa nào cũng quen mặt, vừa nhìn thì biết là người do tôi nhờ vả; thứ hai, anh ta có thực lực, dáng dấp vừa mắt, vẻ mặt cũng sáng sủa, là điển hình khiến người ta yêu mến.
我上了MSN。
Tôi đã lên MSN.
他正好在线,我马上说明来意,结尾还加了一句:“你想想你砸过我那3个大馅饼,我现在还脑震荡呢。”
Đúng lúc anh ta đang ở trên mạng, tôi lập tức nói rõ ý định, kết thúc còn thêm một câu: “Anh nghĩ đi, anh nện lên đầu tôi ba cái bánh có nhân đó, tôi bây giờ còn bị chấn thương đầu nè.”
我们撤
Chúng tôi rút lui.
第二天是周末,下午两点李白准时出现在我的小店门口,这人真好,还穿了一双锃亮的大黑皮鞋。
Ngày hôm sau là cuối tuần, hai giờ chiều Lý Bạch đúng giờ xuất hiện ở cổng cửa hàng nhỏ của tôi, anh này thật được, còn mang một đôi giày đen bóng loáng.
我们步行到爸妈家,快进小区时我挎着他的胳膊,极其恩爱。事如所愿,爸妈眉开眼笑,自己也很有成就感。
Chúng tôi đi bộ đến nhà cha mẹ, lúc sắp vào tiểu khu, tôi khoác tay anh ta cực kỳ thân mật. Sự việc diễn ra như ý muốn, cha mẹ tôi mặt mày hớn hở, bản thân cũng cảm thấy rất có thành tựu.
然后,我们撤。
Sau đó, chúng tôi rút lui.
走出小区,禁不住呼了口长气,我不用再挎着他胳膊了,他却开始一瘸一拐起来。我说,你怎么啦?他指指他的脚,我的天,细皮嫩肉一双脚,硬是被新皮鞋给磨出一个大血泡!
Ra khỏi tiểu khu, không kìm được thở ra một hơi dài, tôi không cần khoác tay anh ta nữa rồi, anh ta lại bắt đầu đi tập tễnh. Tôi nói, anh sao thế? Anh ta chỉ vào chân mình, trời ạ, đôi chân da thịt mịn màng lại bị đôi giày da mới cọ xát làm nổi lên một vết phồng to!
“你何苦穿这个啊,真笨哎你。”
“Anh sao phải khổ sở mang đôi giày này, thật ngốc quá.”
“我还不是为了装得像啊。”他委屈地瞪我。
“Tôi còn không phải là để giả bộ cho giống đó à.” Anh ta ấm ức trừng tôi.
正巧我的店到了,顺手给了他一双麂皮拖鞋。总体算下来,这人赚了。
Vừa may là đã đến cửa hàng của tôi, tiện tay cho anh ta một đôi dép lê da hươu. Tính tổng thể tính thì người này kiếm được lời.
金城武
Kim Thành Vũ
一天后,李白又来了。
Sau một ngày, Lý Bạch lại đến.
他手里提着个口袋,装着那双麂皮鞋。他说:“谢谢,我来还给你。”
Trong tay anh ta xách một cái túi, đựng đôi dép lê da hươu đó. Anh ta nói: “Cám ơn, tôi đến trả cho cô.”
我一拍桌子,“呸,真有你的!”
Tôi vỗ bàn, “Hừ, thật chỉ có anh thôi!”
他吓得一哆嗦,连忙改口:“我买,我买下来还不行吗?”
Anh ta sợ đến run rẩy, liền sửa lại: “Tôi mua, tôi mua cũng không được sao?”
他用220块人民币买下那双麂皮拖鞋,走了,其实他不知道,这双鞋已经在我的橱窗里陈列了很久了,从来没有人来买它,因为它的颜色太特别,它的款式太简单,它的样子太不讨好。
Anh ta dùng 220 đồng nhân dân tệ mua đôi dép lê đó, đi rồi, kỳ thực anh ta không biết, đôi dép này đã trưng bày trong tủ kính của tôi rất lâu rồi, từ trước đến giờ không có người đến mua nó, vì màu sắc của nó quá đặc biệt, kiểu dáng quá đơn giản, không được khách chuộng lắm.
但是李白穿它就很好看,真的很好看。你看他懒洋洋,一身棉布衣裤,配着这双模样奇特的鞋,很像很像T台上走过来的小男模,不,金城武,他像金城武!
Nhưng Lý Bạch mang nó thì rất đẹp, quả thực rất dễ nhìn. Bạn trông dáng vẻ uể oải của anh ta, toàn thân mặc bộ quần áo vải bông, phối đôi dép kiểu dáng kì lạ này, rất giống kiểu tiểu nam người mẫu đi qua trên bục T, mà không, Kim Thành Vũ, anh ta giống Kim Thành Vũ!
麂皮鞋子
Dép lê da hươu
有了麂皮鞋的李白总是时不时跑来遛一圈,显得挺牛。这样一来,我店里的女顾客开始激增,尤以对面大学里的女孩子为主。唉,美色当前,谁不恻隐?我看着这个年轻的男孩,想,如果很久以后,我想要找一位爱人,我希望就是李白再长大一点的样子,他也要穿着旧旧的麂皮鞋,懒洋洋地在阳光里走,他也要有这样的眼睛这样的笑容……
Lý Bạch có dép da hươu luôn thỉnh thoảng lại chạy đến lượm một vòng, tỏ ra rất sành điệu. Đến như vậy, nữ khách hàng trong tiệm của tôi bắt đầu tăng vọt, đặc biệt chủ yếu là những cô bé sắp vào đại học. Ây, sắc đẹp ở trước mặt, ai không động lòng? Tôi nhìn chàng trai trẻ này, nghĩ, nếu như sau này rất lâu, tôi muốn tìm một người yêu, chính là mẫu người hơi lớn hơn Lý Bạch một chút, anh ta cũng phải mang đôi dép lê da hươu cũ, đi uể oải trong ánh nắng, anh ta cũng phải có đôi mắt như thế, nụ cười như thế…..
“喂,你想什么呢?”李白把脸凑过来,看着我。
“Ê, cô nghĩ gì vậy?” Lý Bạch đưa mặt lại gần, đang nhìn tôi.
我们脸对脸,眼对眼,这已经是晚上9点半,店要打烊了。他这么看着我,我一时者点儿发晕,随口说:“李白,你多大?”
Chúng tôi mặt đối mặt, mắt chạm mắt, giờ đã là 9 giờ rưỡi tối, tiệm sắp đóng cửa. Anh ta nhìn tôi như vậy, tôi nhất thời hơi choáng một chút, buột miệng nói: “Lý Bạch, anh bao nhiêu tuổi?”
“我29岁,射手座,和处女座最配了,未婚。”他的表情忽然很郑重。
“Tôi 29 tuổi, chòm sao Xạ Thủ, phối hợp tốt nhất với chòm sao Xử Nữ, chưa kết hôn” Dáng vẻ của anh ta đột nhiên rất trịnh trọng.
“你发傻?”
“Anh ngốc?”
“你是不是灰姑娘?”
“Cô có phải là cô bé lọ lem?”
“灰姑娘?不不不,灰姑娘有水晶鞋,我只有麂皮鞋。”
“Cô bé lọ lem? Không không không, cô bé lọ lem có giày thuỷ tinh, tôi chỉ có dép da hươu.”
“是一样的,你的麂皮鞋也会帮你找到你想找的人。”他捧起我的脸,煞有介事地说。
“Như nhau thôi, dép da hươu của cô cũng sẽ giúp cô tìm được người cô muốn tìm.” Anh ta nâng mặt tôi lên, nói y như thật vậy.
在童话里,有那么一双水晶鞋,它可以帮助王子找到自己的灰姑娘。在我的故事里,只有一双便宜的麂皮鞋,它是我自己设计的,是我自己创造的,可我还真没想到,它也可以帮我,找到我要找的那个人。
Trong truyện cổ tích, có một đôi giày thuỷ tinh như vậy, nó có thể giúp hoàng tử tìm được cô bé lọ lem của mình. Trong chuyện của tôi, chỉ có một đôi dép da hươu rẻ tiền, nó do bản thân tôi thiết kế, do tự tôi sáng tạo, nhưng tôi vẫn thật chưa nghĩ đến, nó có thể giúp tôi tìm được người mà tôi muốn tìm.
在我和李白恋爱以后,我才知道,被砸了3个汉堡的那一天,也是我的男朋友李白的相亲日。
Sau khi tôi và Lý Bạch yêu nhau tôi mới biết, ngày tôi bị nện ba cái ham-bơ-gơ cũng là ngày coi mắt của Lý Bạch bạn trai tôi.
“你挑的是哪家姑娘?告诉我,告诉我,不会是我吧……”我心虚地问。
“Người anh chọn là cô gái nhà nào? Nói cho em biết, không phải là em chứ…” Tôi hỏi một cách chột dạ.
“很可能。”他很臭屁地说。
“Rất có thể.” Anh nói một cách rất xấu xa.
阳光照进小店的落地窗,我们看着对方,傻乎乎地笑起来。
Ánh nắng chiếu vào cửa sổ sát đất của căn tiệm nhỏ, chúng tôi nhìn nhau, cười một cách ngốc nghếch.
NGỌC PHONG
學而不厭誨人不倦
Âm Hán Việt: Học nhi bất yếm hối nhân bất quyện.
Dịch nghĩa: Học nguời không biết chán, dạy người không biết mệt mỏi.
0 responses on "馅饼 — BÁNH CÓ NHÂN"